Lễ truy điệu nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã được cử hành trọng thể theo nghi thức Quốc tang vào sáng cùng ngày tại Nhà tang lễ Quốc gia (Hà Nội), Hội trường Thống Nhất (TP.HCM) và Hội trường T50, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Ngãi.
Sau lễ truy điệu, linh cữu nguyên Chủ tịch nước được di chuyển từ Nhà tang lễ Quốc gia qua các tuyến phố Hà Nội, đến sân bay Nội Bài để về Quảng Ngãi. Đến 14h15, đoàn xe nghi lễ đã đưa di ảnh của ông về nơi an nghỉ cuối cùng tại núi Dông Bồ, xã Phổ Khánh.
Nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương qua đời vào lúc 22h51 ngày 20/5/2024 tại nhà riêng, hưởng thọ 88 tuổi. Ông sinh năm 1937 tại xã Phổ Khánh, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Ông là kỹ sư địa chất, Giáo sư danh dự Viện Hàn lâm Khoa học Liên bang Nga (từ năm 2001), Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị khóa 8, Ủy viên Bộ Chính trị khóa 9, và là Ủy viên Trung ương Đảng 5 khóa liên tiếp từ khóa 5 (dự khuyết) đến khóa 9. Ông cũng là đại biểu Quốc hội các khóa 7, 8 và 10.
Nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương được biết đến là một nhà kỹ trị thầm lặng, người đã để lại nhiều dấu ấn quan trọng trong sự nghiệp lãnh đạo của mình. Trước khi trở thành Chủ tịch nước (1997-2006), ông từng giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (1987-1991) và Phó Thủ tướng (1992-1997), phụ trách các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, thương mại và xây dựng. Ông có đóng góp quan trọng trong việc xây dựng các đạo luật như Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Phá sản, Luật Đất đai, tạo nền tảng cho sự phát triển của kinh tế thị trường. Đặc biệt, ông đã thúc đẩy hợp tác với Nga trong lĩnh vực dầu khí và năng lượng, đảm bảo thiết bị cho thủy điện Hòa Bình sau khi Liên Xô tan rã.
Trong vai trò Chủ tịch nước, ông Trần Đức Lương đã dẫn dắt Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng. Ông đã tổ chức thành công Hội nghị Pháp ngữ năm 1997 và đề xuất sáng kiến xóa đói giảm nghèo tại Liên Hợp Quốc năm 2000. Ông cũng chỉ đạo xây dựng Đề án bảo vệ Tổ quốc, góp phần quan trọng vào công tác quốc phòng và an ninh. Với vai trò là một kỹ sư địa chất, ông là đồng chủ biên của các công trình bản đồ địa chất Việt Nam và được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2005. Phong cách lãnh đạo cẩn trọng và thẳng thắn đã giúp ông nhận được Huân chương Sao Vàng và Huy hiệu 65 năm tuổi Đảng.
Ông Nguyễn Thanh Cải, nguyên Giám đốc Đài Phát thanh Truyền hình Hải Dương, nhớ lại những kỷ niệm khi làm việc tại Cục Bản đồ Địa chất, nơi ông ở cùng khu tập thể với Cục trưởng Trần Đức Lương. Trong lần gặp đầu tiên, ông Lương đã đi thẳng vào vấn đề chuyên môn thay vì hỏi về quê quán hay lý lịch: “Vùng tiếp giáp giữa Thái Nguyên và Tuyên Quang, mấy năm trước đội khảo sát địa chất mình phát hiện là vùng kiến tạo đa khoáng, đúng không?”. Cuộc trò chuyện nhanh chóng xoay quanh các vấn đề chuyên sâu về quặng thiếc, thạch anh, vonfram, parit và những nghiên cứu của Viện Khoáng sản.
Tại khu tập thể ở Tân Quang (Mỹ Văn, Hải Hưng), ông Lương luôn là người làm việc muộn nhất. Vào buổi tối, ông thường tiếp đón các cán bộ từ các đoàn khảo sát Việt Bắc, Tây Bắc, miền Trung đến báo cáo. “Có hôm gần nửa đêm ông mới ăn cơm, nhưng ngay sau đó lại trải bản đồ, đánh dấu từng địa danh. Con trai ông – Trần Tuấn Anh – nhiều lần phải sang phòng tôi học bài khuya, và cũng quen với cách làm việc đến 11-12h đêm của bố”, ông Cải chia sẻ.
Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên nhận xét rằng nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương là một người có tầm nhìn chiến lược và sự hiểu biết sâu sắc về đối ngoại. Trong giai đoạn 2000-2006, Việt Nam bước vào một giai đoạn hội nhập quốc tế quan trọng với chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Đây là thời kỳ Việt Nam có những bước đi chiến lược trong việc mở rộng quan hệ quốc tế và củng cố vị thế trên trường quốc tế.
Nguyên Chủ tịch nước không chỉ tham gia vào các quyết định quan trọng mà còn có những chỉ đạo cụ thể đối với từng chuyến công du, cuộc tiếp đón nguyên thủ quốc gia, hoặc thậm chí từng bài phát biểu chính thức. Những hoạt động này đã tạo nền tảng vững chắc cho chiến lược ngoại giao hội nhập chủ động của Việt Nam trong những năm sau này.
Một trong những dấu mốc quan trọng trong nhiệm kỳ của Chủ tịch nước Trần Đức Lương là chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Mỹ Bill Clinton năm 2000. Đây là lần đầu tiên một Tổng thống Mỹ đến thăm Việt Nam sau chiến tranh, trong bối cảnh dư âm của cuộc chiến vẫn còn trong lòng nhiều người dân và các cán bộ lão thành. Vấn đề đặt ra là làm sao thể hiện thiện chí hợp tác với Mỹ, đồng thời vẫn giữ vững sự tôn nghiêm dân tộc.
Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã chỉ đạo rất kỹ lưỡng từ lời nói, cử chỉ cho đến bài phát biểu chiêu đãi Tổng thống Clinton. Bài phát biểu được soát xét kỹ lưỡng từng câu chữ, thậm chí Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu lúc bấy giờ cũng tham gia rà soát để đảm bảo tinh thần hòa giải và hợp tác, đồng thời bảo vệ được cảm xúc chính đáng của người dân Việt Nam. Chuyến thăm đã thành công rực rỡ và để lại hình ảnh ấn tượng: Gia đình ông Clinton đứng trên bậc thang máy bay vẫy tay chào lưu luyến khi rời Việt Nam, một hình ảnh biểu tượng cho sự hòa giải và sự tự tin của Việt Nam trên trường quốc tế.
Trong các chuyến công du quốc tế, Chủ tịch nước Trần Đức Lương luôn thể hiện bản lĩnh và trí tuệ trong những tình huống bất ngờ. Một kỷ niệm đáng nhớ mà ông Nguyễn Dy Niên còn nhớ là trong chuyến thăm Na Uy, khi một nhóm người Việt phản động tổ chức biểu tình ngay tại sân bay. Đây là một tình huống khá căng thẳng, nhưng ông Trần Đức Lương đã rất bình tĩnh, chỉ đạo đoàn giữ phong thái điềm tĩnh và lịch sự.

“Chúng ta là quốc gia chiến thắng, chúng ta có thể không cần phải phản ứng gay gắt mà vẫn thể hiện được bản lĩnh quốc gia,” ông Lương nói với cấp dưới. Cách ứng xử này đã gây ấn tượng mạnh với dư luận quốc tế, cho thấy Việt Nam không chỉ mạnh mẽ mà còn đầy tự tin và kiên quyết.
Cũng trong các chuyến công du, Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã thể hiện sự nhạy bén trong việc thúc đẩy hợp tác quốc tế. Trong chuyến thăm Anh, ban đầu, Thủ tướng Tony Blair chỉ sắp xếp cuộc gặp với Chủ tịch nước trong 20 phút để trao đổi xã giao. Tuy nhiên, khi ông Trần Đức Lương nêu ra các đề xuất hợp tác cụ thể về đầu tư, giáo dục, khoa học và công nghệ, cuộc gặp đã kéo dài tới 45 phút, khiến Thủ tướng Anh phải ngạc nhiên về sự chủ động và tầm nhìn chiến lược của lãnh đạo Việt Nam.
Theo nguyên Bộ trưởng Nguyễn Dy Niên, Chủ tịch nước Trần Đức Lương cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quan hệ Việt Nam với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Ông là người tham gia trực tiếp vào quá trình bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, gia nhập ASEAN và thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ vào năm 1995. Những quyết sách này đã giúp Việt Nam vượt qua những khó khăn, mở rộng quan hệ và nâng cao vị thế trên trường quốc tế.
Trong giai đoạn này, Việt Nam cũng chứng kiến những nỗ lực mạnh mẽ trong việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và tổ chức các hội nghị quốc tế lớn như Hội nghị Á-Âu (ASEM) và Cộng đồng Pháp ngữ, với sự đóng góp to lớn của Chủ tịch nước Trần Đức Lương.
Ông Trần Đức Lương luôn coi ngoại giao là một công cụ quan trọng để phục vụ phát triển kinh tế. Một trong những trăn trở lớn nhất của ông là làm sao để ngoại giao giúp thu hút đầu tư, phát triển khoa học công nghệ, từ đó thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Ông thường chia sẻ với các đồng nghiệp trong ngành ngoại giao rằng: “Đất nước mình còn nghèo, ngoại giao phải làm tốt hơn nữa để thu hút đầu tư, học hỏi bạn bè, giúp dân mình sống khá lên”. Đây là tư duy chiến lược mà ông luôn theo đuổi và khuyến khích các thế hệ làm ngoại giao kế tiếp.
Admin
Nguồn: VnExpress