Rối loạn tâm thần gây bệnh da liễu: Cảnh báo và điều trị

Ngày càng có nhiều bệnh nhân mắc các bệnh da liễu liên quan đến yếu tố tâm thần như lo âu, trầm cảm và rối loạn ám ảnh cưỡng chế. Điều này đòi hỏi các bác sĩ da liễu cần trang bị kiến thức chuyên sâu để chẩn đoán và điều trị hiệu quả hơn. Thông tin này được PGS.TS.BS Nguyễn Trọng Hào, Chủ tịch Hội đồng trường Trường ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Chủ tịch Hội Da Liễu TP HCM, nhấn mạnh tại hội nghị khoa học thường niên ngày 25/5, tập trung vào chủ đề phối hợp liên ngành trong chuyên khoa da liễu.

Theo Phó giáo sư Hào, các rối loạn da tâm thần có thể được phân thành bốn nhóm chính. Nhóm thứ nhất là các rối loạn tâm sinh lý, bao gồm các bệnh như viêm da cơ địa, vảy nến, mụn trứng cá, tăng tiết mồ hôi và lichen đơn mạn tính. Tình trạng của những bệnh này thường trở nên nghiêm trọng hơn khi bệnh nhân gặp phải các vấn đề về tâm lý.

Nhóm thứ hai là các rối loạn tâm thần nguyên phát, ví dụ như rối loạn bóc da, hoang tưởng bị nhiễm ký sinh trùng, viêm da tự tạo và tật nhổ tóc. Những rối loạn này có thể khiến bệnh nhân tự gây ra các tổn thương trên da. Trong trường hợp này, bệnh nhân thực chất không mắc các bệnh về da liễu mà các vết thương là do hành vi xuất phát từ rối loạn tâm thần gây ra.

Bệnh viện Da Liễu TP HCM đã từng tiếp nhận và điều trị nhiều trường hợp bệnh nhân hoang tưởng bị nhiễm ký sinh trùng. Một ví dụ điển hình là một người đàn ông sau khi bị chấn thương lưng và đang trong quá trình nhận bồi thường bảo hiểm, đã tin rằng nhân viên bảo hiểm đã tiêm ấu trùng vào cơ thể ông. Người này đã tự đốt thuốc lá lên da và dùng nhíp để cố gắng gắp “ấu trùng” ra, dẫn đến việc da mặt và tay đầy sẹo.

Một trường hợp khác là một người đàn ông bị trầm cảm và lo âu kéo dài sau khi bị đột quỵ dẫn đến liệt nửa người. Ông đã tự tạo ra các vết loét trên tay phải trong suốt bốn tháng. Các bác sĩ xác định rằng đây là tình trạng loét da tự tạo do ảnh hưởng của trầm cảm. Việc điều trị cho bệnh nhân này không chỉ bao gồm chăm sóc vết loét mà còn cần kết hợp sử dụng thuốc kháng sinh, thuốc giảm viêm, hỗ trợ tâm lý và điều trị chuyên khoa.

PGS.TS.BS Nguyễn Trọng Hào tại hội thảo ngày 25/5. Ảnh: Song Khuê
PGS.TS.BS Nguyễn Trọng Hào chia sẻ tại hội thảo da liễu. Ảnh: Internet

Nhóm thứ ba là các rối loạn tâm thần thứ phát, xuất phát từ các bệnh da liễu như bạch biến, rụng tóc từng mảng và trứng cá nang. Những bệnh này có thể gây ra căng thẳng, dẫn đến các rối loạn tâm thần. Thông thường, các vấn đề tâm thần sẽ xuất hiện sau khi các tổn thương da đã hình thành.

Cuối cùng, một số bệnh nhân gặp phải tình trạng rối loạn cảm giác trên da, cảm thấy ngứa ngáy, bỏng rát, châm chích hoặc có cảm giác như côn trùng đang bò dưới da, mặc dù không có tổn thương thực thể nào.

Hiện nay, nhiều quốc gia đã thành lập các phòng khám da – tâm thần để giải quyết các yếu tố tâm lý liên quan đến rối loạn da. Mô hình này giúp bệnh nhân được lắng nghe, giảm bớt sự kỳ thị và tăng cường niềm tin vào quá trình điều trị. Các liệu pháp tâm thần có thể giúp phá vỡ vòng luẩn quẩn của căng thẳng, từ đó cải thiện tình trạng bệnh da.

Bệnh nhân khám tại Bệnh viện Da Liễu TP HCM. Ảnh: Bệnh viện cung cấp
Khám da liễu tại TP HCM: Hướng dẫn và thông tin bệnh viện. Ảnh: Internet

Trước tình hình số lượng bệnh nhân mắc bệnh da tâm thần ngày càng tăng, Bệnh viện Da Liễu TP HCM đã cử các bác sĩ tham gia đào tạo chuyên khoa tâm thần tại Bệnh viện Tâm thần TP HCM. Điều này giúp cho việc phát hiện, xử trí và quản lý bệnh da tâm thần trở nên hiệu quả hơn, đồng thời giảm thiểu các chỉ định chuyển viện không cần thiết. Phương pháp này đặc biệt hữu ích đối với những bệnh nhân không hợp tác hoặc từ chối khám tâm thần.

Chủ tịch Hội Da liễu TP HCM nhấn mạnh rằng các bác sĩ da liễu không chỉ cần chuyên môn về da mà còn cần có “tư duy phối hợp” với nhiều chuyên ngành khác nhau. “Da không hoạt động một mình, bác sĩ da liễu cũng cần như vậy”, ông nói. Các bệnh lý về da thường liên quan đến nhiều chuyên ngành khác nhau như bệnh tự miễn, tự viêm, rối loạn di truyền, dị ứng, tâm thần, nội tiết, lão khoa, nhiễm trùng và ung thư. Sự phối hợp liên ngành sẽ giúp chẩn đoán bệnh sớm, cải thiện kết quả điều trị, tăng sự hài lòng của bệnh nhân, giảm các trường hợp chuyển viện không cần thiết, tối ưu hóa phác đồ điều trị, đồng thời hỗ trợ quá trình đào tạo và nghiên cứu khoa học.

Admin


Nguồn: VnExpress

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *