Bộ Xây dựng đang thu thập ý kiến đóng góp cho dự thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành danh mục các sản phẩm và dịch vụ công nghiệp đường sắt sẽ được thực hiện theo hình thức đặt hàng hoặc giao nhiệm vụ. Động thái này nhằm tạo điều kiện cho các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp nhà nước giao nhiệm vụ hoặc đặt hàng các doanh nghiệp trong nước nghiên cứu, chế tạo, sản xuất và phát triển sản phẩm, từng bước nâng cao tỷ lệ nội địa hóa trong ngành đường sắt.
Trước mắt, hoạt động đặt hàng và giao nhiệm vụ sẽ tập trung vào các vật tư, thiết bị và phụ tùng đường sắt có tiềm năng thị trường lớn, đồng thời phù hợp với năng lực công nghệ, trình độ sản xuất và nguồn nhân lực hiện có của Việt Nam.

Theo đề xuất của Bộ Xây dựng, danh mục này bao gồm 8 sản phẩm và dịch vụ. Trong đó, có bốn nhóm sản phẩm và dịch vụ được thực hiện theo phương thức giao nhiệm vụ hoặc đặt hàng, bao gồm: Nghiên cứu, xây dựng tiêu chuẩn; nghiên cứu và phát triển sản phẩm, hàng hóa; đánh giá sự phù hợp với tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật; đào tạo và tiếp nhận chuyển giao công nghệ.
Bốn nhóm còn lại được thực hiện theo phương thức đặt hàng, bao gồm: Sản xuất và lắp ráp các thiết bị như ray, ghi và phụ kiện liên kết; hệ thống thông tin, tín hiệu đường sắt; hệ thống cấp điện cho tàu kéo; và phương tiện giao thông đường sắt.
Hiện tại, mạng lưới đường sắt quốc gia có 7 tuyến chính và 12 tuyến nhánh, với tổng chiều dài đường chính là 2.703 km.
Mặc dù ngành công nghiệp đường sắt đã đạt được một số thành tựu nhất định, theo đánh giá của Bộ Xây dựng, song chủ yếu mới chỉ đáp ứng được nhu cầu bảo trì và sửa chữa các phương tiện có tốc độ thấp. Công tác sản xuất và chế tạo vật tư, thiết bị cơ khí còn lạc hậu. Bên cạnh đó, các tuyến đường sắt đô thị như Cát Linh – Hà Đông, Nhổn – Ga Hà Nội và Bến Thành – Suối Tiên đã được đưa vào khai thác, sử dụng nhưng vẫn đang trong giai đoạn bảo hành hoặc chưa phát sinh nhu cầu thay thế thiết bị.
Thực tế, cả nước hiện có 35 cơ sở tham gia vào ngành công nghiệp đường sắt, nhưng phần lớn máy móc và linh kiện vẫn phải nhập khẩu, dẫn đến tình trạng thiếu đồng bộ và lạc hậu. Hơn nữa, hệ thống công nghiệp đường sắt hiện tại chưa đủ điều kiện để tham gia vào các dự án điện khí hóa, thiếu trang thiết bị, công nghệ và nhân lực để phục vụ cho loại hình đường sắt này.
Thời gian qua, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết về việc đầu tư vào đường sắt tốc độ cao, đường sắt Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng và các tuyến đường sắt đô thị tại Hà Nội và TP.HCM. Cùng với các quy hoạch đã được phê duyệt, điều này cho thấy tiềm năng và nhu cầu thị trường đối với các sản phẩm công nghiệp đường sắt là rất lớn, mở ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia.
Nghị quyết 68 cũng xác định nhiệm vụ hoàn thiện hệ thống pháp luật, loại bỏ các rào cản tiếp cận thị trường cho doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, do hầu hết các doanh nghiệp trong nước chưa có kinh nghiệm và cơ hội tham gia vào chuỗi công nghiệp đường sắt, nên gặp nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài.
Do đó, Bộ Xây dựng cho rằng, các nhà điều hành cần có chính sách ưu tiên và khuyến khích đặc biệt để phát triển công nghiệp đường sắt. Bộ đề xuất áp dụng các chính sách này thông qua cơ chế Nhà nước đảm bảo thị trường đầu ra ổn định cho các doanh nghiệp nghiên cứu, sản xuất, chế tạo và phát triển sản phẩm đồng bộ cả 4 nhóm (xây dựng công trình, thông tin tín hiệu, phương tiện, điện sức kéo). Từ đó, các doanh nghiệp có thể phát triển sản phẩm và từng bước nâng cao tỷ lệ nội địa hóa.
Bộ Xây dựng nhấn mạnh rằng, việc ban hành danh mục các sản phẩm và dịch vụ công nghiệp đường sắt được đặt hàng hoặc giao nhiệm vụ sẽ là cơ sở để các doanh nghiệp Việt Nam từng bước làm chủ thiết kế hệ thống, xây dựng, bảo trì, sửa chữa các công trình đường sắt, cũng như sản xuất được các vật tư và vật liệu cần thiết cho các công trình này.
Admin
Nguồn: VnExpress