Dịch tả lợn châu Phi, nỗi lo thường trực của người chăn nuôi và người tiêu dùng, tiếp tục đặt ra những thách thức lớn. Tình trạng lợn bệnh bị giấu giếm, bán tháo, cùng với việc thương lái bí mật thu mua để kiếm lời, vẫn diễn ra.
Điển hình, ngày 28/5 vừa qua, Công an Hà Tĩnh đã chặn giữ một xe tải chở 180 con lợn nhiễm dịch tả châu Phi, không có giấy tờ kiểm dịch, trên đường tiêu thụ tại Quảng Bình và TP Huế. Trước đó, tại Vĩnh Phúc, lực lượng quản lý thị trường cũng phát hiện một tấn thịt lợn chết đang được vận chuyển đi tiêu thụ. Nếu không bị phát hiện, số thực phẩm này có thể đã đến bàn ăn của người dân.
Phần lớn các ổ dịch tả lợn châu Phi xuất phát từ các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, và đáng lo ngại, nhiều ổ dịch tái phát trên nền các ổ dịch cũ. Nguyên nhân chính vẫn là sự thiếu tuân thủ các quy trình an toàn sinh học. Trong bối cảnh không thể bán lợn cho thương lái, nhiều hộ dân đã vứt xác lợn chết ra sông, suối, kênh, mương.
Mặc dù chăn nuôi nhỏ lẻ chiếm tỷ trọng không lớn trong cơ cấu ngành chăn nuôi, đặc biệt là chăn nuôi lợn tại các tỉnh, thành phố, nhưng lại là một vấn đề nan giải đối với các cơ quan quản lý. Ý thức của người chăn nuôi còn hạn chế, nhưng các giải pháp quản lý để nâng cao ý thức lại chưa được chú trọng đúng mức.
Việc cấm chăn nuôi trong đô thị theo luật là một ví dụ điển hình. Một lãnh đạo địa phương chia sẻ rằng, dù HĐND tỉnh đã nhiều lần dự kiến ban hành nghị quyết về khu vực cấm chăn nuôi trong nội thành, nội thị, nhưng sau nhiều lần khảo sát, lấy ý kiến, việc cấm vẫn không thực hiện được, và lợn, gà vẫn sống chung với người dân trong nội đô.
Sau khi Luật Chăn nuôi có hiệu lực vào năm 2020, 25 tỉnh thành đã ban hành nghị quyết về khu vực cấm chăn nuôi trong nội thành, nội thị. Tuy nhiên, đến nay, một nửa trong số đó đã phải điều chỉnh hoặc không thể thực hiện. Điều này cho thấy sự không phù hợp giữa các quy định của Luật Chăn nuôi và thực tiễn sản xuất.
Luật Chăn nuôi quy định các điều kiện cụ thể cho từng đối tượng chăn nuôi. Theo đó, cả chăn nuôi quy mô nhỏ và quy mô nông hộ đều phải tuân thủ các điều kiện như chuồng nuôi phải tách biệt với nơi ở, có biện pháp thu gom phân, nước thải, xác vật nuôi, chất thải chăn nuôi, và định kỳ vệ sinh, tiêu độc, khử trùng chuồng trại, dụng cụ chăn nuôi. Như vậy, dù là trang trại hay nông hộ, chăn nuôi đều là ngành sản xuất kinh doanh có điều kiện.
Các điều kiện trong luật và nghị định thường mang tính khái quát, chung nhất, do đó, khi áp dụng vào thực tế, cần có các hướng dẫn kỹ thuật cụ thể từ ngành chăn nuôi cho từng địa phương. Ví dụ, cần quy định rõ khoảng cách an toàn giữa chuồng trại và nơi ở là bao nhiêu mét, định lượng phân thải, nước thải thế nào được coi là đảm bảo tiêu chí, mật độ chăn nuôi phù hợp cho từng vùng là bao nhiêu. Các hướng dẫn kỹ thuật cụ thể (hoặc đề án cho từng xã) là cần thiết vì đặc điểm chăn nuôi ở miền núi khác miền biển, ở vùng đô thị, ven đô khác vùng nông thôn, vùng có mật độ dân cư dày khác nơi có mật độ dân cư thưa. Tuy nhiên, hầu hết các địa phương mới chỉ quan tâm đến chăn nuôi lớn, chăn nuôi trang trại, còn các hộ nhỏ lẻ thì tự nuôi theo cách riêng của mình.
Một cán bộ Trung tâm Ứng dụng khoa học kỹ thuật và bảo vệ cây trồng vật nuôi thành phố Hà Tĩnh chia sẻ rằng, mỗi khi xuống cơ sở, anh luôn cảm thấy băn khoăn trước sự đơn độc và lúng túng của nông dân. Việc họ vứt lợn chết vì dịch ra kênh mương là đáng trách, nhưng ngay cả việc chôn lấp cũng chưa hẳn đã an toàn, vì hầu hết địa phương không quy hoạch và bố trí quỹ đất dự trữ cho phòng chống dịch bệnh. Tại xã ven biển Thạch Văn, nơi anh phụ trách, động vật chết thường được đưa ra các trảng cát để chôn lấp vì ở đó không có dân cư. Tuy nhiên, đất cát dễ bị xói lở, nguồn nước dễ bị thẩm thấu, và việc chôn lấp sơ sài có thể vô tình làm dịch bệnh phát tán.
Quy trình phòng dịch hiện nay còn máy móc và mang tính hình thức. Khi dịch bệnh xảy ra, các barie chốt chặn được dựng lên, vôi bột được rắc khử trùng tại các trục đường chính, với hy vọng ngăn chặn tình trạng vận chuyển lợn dịch ra khỏi địa bàn. Tuy nhiên, với nhiều đường làng ngõ xóm, không có lực lượng nào có thể chốt gác kín kẽ 24/24h trong suốt 21 ngày. Trong khi đó, virus tả lợn châu Phi có thể lây lan qua lợn, thức ăn, phương tiện, đồ dùng chăn nuôi…

Giải pháp hiệu quả nhất là chống dịch ngay tại cửa chuồng bằng các biện pháp an toàn sinh học, nhưng lại thiếu hướng dẫn cụ thể, cũng như cơ chế giám sát và cưỡng chế đối với các hộ nuôi.
Như vậy, cách chống dịch hiện nay giống như “bịt hang mối” hơn là xử lý từ gốc.
Chăn nuôi nhỏ lẻ thường dựa vào công làm lãi. Nếu thành công, nông dân có thêm thu nhập để trang trải cuộc sống. Ngược lại, nếu bị dịch bệnh, họ cũng không mất trắng. Hơn nữa, khi bị thiệt hại do dịch bệnh, nhiều hộ còn được Nhà nước hỗ trợ kinh phí tái đàn và một số chi phí khác, điều này làm giảm áp lực lên người chăn nuôi, dễ dẫn đến tâm lý chủ quan, tùy tiện.
Tuy nhiên, nếu tính tổng thể cho cả ngành chăn nuôi, thiệt hại là rất lớn. Chưa kể, cách nuôi của các hộ nhỏ lẻ đang tạo điều kiện cho các mầm dịch tiềm tàng phát triển, có nguy cơ đánh sập cả nền chăn nuôi lớn.
Vậy, làm thế nào để giúp hộ chăn nuôi nhỏ lẻ phòng bệnh từ bên trong? Giải pháp là mỗi xã cần có một đề án chăn nuôi riêng, phù hợp với đặc thù địa bàn, trên cơ sở cụ thể hóa Luật Chăn nuôi và các đạo luật liên quan, cũng như hướng dẫn của ngành chuyên môn. Đề án cần quy định rõ điều kiện chăn nuôi trên địa bàn, quy trình phòng ngừa và xử lý dịch bệnh ngay tại chuồng hộ, các điều kiện được hỗ trợ và xử phạt trong trường hợp rủi ro hoặc gây ra rủi ro. Khi đó, nông dân sẽ có căn cứ để áp dụng, chính quyền và cơ quan chuyên môn có căn cứ để giám sát, xử lý, thay vì chỉ chạy theo xử lý tình huống như hiện nay.
Rõ ràng, việc loại bỏ chăn nuôi nhỏ lẻ trong điều kiện sản xuất và đời sống hiện tại là không khả thi, nhưng việc hướng dẫn và có cơ chế quản lý, giám sát, thậm chí là cưỡng chế tuân thủ quy định đối với chăn nuôi nhỏ lẻ là hoàn toàn có thể thực hiện được.
Admin
Nguồn: VnExpress