Ngai vàng Tử Cấm Thành: Lịch sử thăng trầm ít người biết

Điện Thái Hòa, một phần không thể thiếu của Cố Cung (Tử Cấm Thành), nổi tiếng với long kỷ, hay còn gọi là ngai vàng, một biểu tượng quyền lực tối cao của các hoàng đế. Theo Sina, du khách ngày nay đến Cố Cung mà chưa chiêm ngưỡng long kỷ trong điện Thái Hòa thì coi như chưa thực sự khám phá hết di tích lịch sử này.

Chiếc ngai vàng này có lịch sử khoảng 450 năm, bắt đầu từ thời nhà Minh. Nó không chỉ là một vật dụng, mà còn gắn liền với những sự kiện trọng đại từ thời vua Khang Hy đến khi nhà Thanh sụp đổ.

Điện Thái Hòa, với diện tích hơn 2.000 m2, là công trình kiến trúc lớn nhất trong Tử Cấm Thành, nơi từng là hoàng cung của các triều đại Minh và Thanh. Các chuyên gia khảo cổ cho rằng long kỷ có thể đã xuất hiện từ triều đại vua Gia Tĩnh (1521-1567) nhà Minh. Đến thời vua Khang Hy, khi điện Thái Hòa được trùng tu, long kỷ cũng được phục chế và tiếp tục sử dụng. Hình ảnh chiếc ngai vàng này thậm chí còn xuất hiện trong một bức chân dung của vua Khang Hy. Từ đó về sau, bảo tọa luôn được đặt trang trọng tại điện Thái Hòa, chứng kiến sự trị vì của hơn 20 vị hoàng đế.

Ngai vàng này được mệnh danh là “Thiên hạ đệ nhất kỷ”, với thiết kế khác biệt so với những chiếc ghế thông thường. Thay vì chân trụ, nó được đặt trên một bệ rộng 2,5m và sâu hơn 1m. Theo chuyên gia khảo cổ Hồ Đức Sinh, người phụ trách nghiên cứu và bảo dưỡng các vật dụng trong Bảo tàng Cố Cung, Tử Cấm Thành có hơn 30 chiếc ghế dành cho vua chúa, được đặt ở các điện khác nhau, nhưng bảo tọa ở điện Thái Hòa được chế tác với đẳng cấp cao nhất và kích thước lớn nhất.

Hình rồng trên bảo tọa. Ảnh: DPM
Hình rồng trên bảo tọa: Biểu tượng quyền lực (Ảnh: DPM). Ảnh: Internet

Chiếc ghế được chạm trổ hình rồng, sơn son thếp vàng, tạo nên vẻ đẹp rực rỡ, uy nghi. Nó được đặt ở vị trí cao nhất trong điện, nơi các hoàng đế nhà Thanh cử hành lễ đăng cơ, tham gia các hoạt động quốc gia quan trọng, tiếp đón quan lại và sứ thần nước ngoài. Trên ghế có chạm 13 hình rồng, xung quanh còn được trang trí bằng nhiều viên đá quý. Phía sau ngai vàng là một bình phong mạ vàng, cùng với các vật phẩm bài trí như hạc tiên và lư hương.

Năm 1915, khi Viên Thế Khải xưng đế, ông đã loại bỏ các biểu tượng quyền lực của đế vương, khiến long kỷ và nhiều đồ vật khác trong điện Thái Hòa biến mất không dấu vết. Chiếc bảo tọa chạm rồng được thay thế bằng một chiếc ghế bành mang phong cách pha trộn giữa Trung Hoa và phương Tây. Mặc dù Viên Thế Khải chỉ làm hoàng đế trong 83 ngày rồi qua đời, chiếc ghế bành này vẫn được giữ lại trong điện Thái Hòa trong nhiều năm sau đó.

Đến năm 1947, Bảo tàng Cố Cung quyết định khôi phục lại nguyên trạng điện Thái Hòa và tháo dỡ chiếc ghế của Viên Thế Khải. Tuy nhiên, việc tìm kiếm một chiếc ghế thay thế phù hợp gặp nhiều khó khăn, vì những chiếc ghế tìm được đều quá nhỏ, không tương xứng với bình phong lớn phía sau và không phù hợp với không khí uy nghiêm của điện Thái Hòa.

Ngai vàng nhìn từ phía sau. Ảnh: DPM
Ngắm nhìn ngai vàng từ phía sau (Ảnh: DPM). Ảnh: Internet

Năm 1959, chuyên gia Thanh sử Chu Gia Tấn phát hiện một bức ảnh lịch sử về điện Thái Hòa, từ đó lần theo dấu vết của long kỷ. Ông tìm thấy chiếc ngai vàng của hoàng đế trong một nhà kho chứa đồ vật hư hỏng, và nó đang trong tình trạng hư hỏng nghiêm trọng.

Năm 1963, Bảo tàng Cố Cung quyết định phục chế long kỷ thời Thanh. Dự án này có sự tham gia của đội ngũ chuyên gia và nghệ nhân thuộc nhiều lĩnh vực thủ công khác nhau. Sau 934 ngày, công việc phục chế hoàn tất, chiếc ngai vàng tỏa sáng trở lại và được đưa về vị trí ban đầu trong điện Thái Hòa. Ông Chu Gia Tấn, người đã theo sát quá trình phục chế trong suốt ba năm, chia sẻ rằng ông luôn làm việc với tâm lý kính sợ và không dám có bất kỳ ý đồ nào khác đối với chiếc ngai vàng.

Bảo tọa trong điện Thái Hòa. Ảnh: DPM
Bảo tọa uy nghi trong điện Thái Hòa (Ảnh: DPM). Ảnh: Internet

Theo DPM, từ “bảo tọa” có nguồn gốc từ Phật giáo và ban đầu không liên quan đến hoàng thất. Từ thời Tống, Minh, “bảo tọa” dần trở thành từ dùng để chỉ ghế ngồi của hoàng đế. Đến thời nhà Thanh, uy quyền của long kỷ được đề cao hơn bao giờ hết. Sử sách ghi lại một câu chuyện về vua Ung Chính khi mới lên ngôi. Một lần, ông thấy một tiểu thái giám cầm chổi, ngẩng cao đầu, ưỡn ngực đi ngang qua ngai vàng, ông đã rất tức giận và khiển trách người này vì không hiểu quy củ. Nhà vua hạ lệnh rằng bất cứ nơi nào có đặt bảo tọa, khi đi ngang qua, tất cả mọi người phải cung kính, cúi đầu và khom lưng.

Các vật phẩm trong cung thường được làm theo cặp, nhưng long kỷ thì chỉ có một, vì “Trái Đất không thể có hai mặt trời, một nước không thể có hai vua”. Cho đến ngày nay, quy trình bảo dưỡng và tu sửa bảo tọa vẫn được thực hiện một cách nghiêm ngặt. Trước khi tiến hành lau chùi hoặc sửa chữa, sơn mạ, các chuyên gia đều thử nghiệm trên một phạm vi nhỏ trước, sau đó mới áp dụng trên toàn bộ chiếc ghế. Khi tham quan Cố Cung, du khách cũng không được phép lại gần ngai vàng mà chỉ có thể chiêm ngưỡng từ phía cửa.

Theo Thepaper, bộ phim “The Last Emperor” (Mạt đại hoàng đế, 1987) là một tác phẩm điện ảnh đặc biệt khi được quay tại điện Thái Hòa. Đoàn làm phim đã xin phép trước khi Bộ Văn hóa Trung Quốc ban hành quy định cấm quay phim trong các di sản kiến trúc mang tầm quốc tế. Đây cũng là dự án phim nước ngoài đầu tiên được chính phủ Trung Quốc hỗ trợ thực hiện kể từ năm 1949.

Phim cuối cùng ở Tử Cấm Thành
Phổ Nghi lên ngôi hoàng đế: Khoảnh khắc lịch sử (Video Columbia). Ảnh: Internet

Một trong những cảnh quay ấn tượng nhất của bộ phim là cảnh Phổ Nghi đăng cơ khi còn nhỏ. Đại cảnh này đã tái hiện lại hình ảnh bảo tọa và bình phong phía sau một cách chân thực. Để đảm bảo an toàn tuyệt đối trong quá trình quay phim tại điện Thái Hòa, đoàn làm phim không được phép đặt bất kỳ máy móc, đạo cụ nào tại đây, kể cả các thiết bị gắn máy ảnh và chiếu sáng. Nhà quay phim chỉ có thể sử dụng máy quay cầm tay và đặt đèn chiếu từ bên ngoài điện.

Bộ phim đã gây tiếng vang lớn và được đề cử chín giải Oscar năm 1988, và đã thắng tất cả các đề cử này. Sakamoto Ryūichi, một nhà soạn nhạc tài ba người Nhật Bản, người phụ trách phần nhạc nền của “The Last Emperor”, đã chia sẻ về kỷ niệm khi làm phim: “Khi nhìn thấy kiến trúc hoa lệ, cung điện và những bức tường đỏ, tôi cảm thấy như hoàng đế vẫn đang sống ở đây. Tôi vẫn nhớ tiếng gió và cảm nhận được sự bi thương và cô độc.”

Admin


Nguồn: VnExpress

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *