Nhạc sĩ Văn Cao, người bắt đầu sự nghiệp sáng tác từ năm 16 tuổi với ca khúc “Buồn tàn thu” (1939), đã để lại một di sản âm nhạc đồ sộ, trải dài từ những giai điệu trữ tình đến những khúc ca hào hùng. Việc làm mới những tác phẩm của ông để tiếp cận khán giả đương đại là một thách thức không nhỏ đối với bất kỳ nghệ sĩ nào.

Trong buổi talkshow “Đi tìm mùa bình thường mơ ước: Di sản âm nhạc Văn Cao qua lăng kính người trẻ” diễn ra tối 8/6, họa sĩ Văn Thao, con trai trưởng của nhạc sĩ Văn Cao, chia sẻ rằng ca sĩ có quyền tự do biến hóa giọng hát và lựa chọn phong cách thể hiện, nhạc sĩ có thể hòa âm phối khí lại các ca khúc, nhưng điều quan trọng là phải giữ được “hồn cốt” mà Văn Cao đã gửi gắm. Ông nhấn mạnh: “Không phải cái gì cũng lợi dụng việc làm mới”.

Thiếu úy Nguyễn Hữu Hoàng Sơn, một diễn giả trẻ tại sự kiện và hiện công tác tại Nhà hát Ca múa nhạc Quân đội, cho rằng việc các ca sĩ thể hiện lại những nhạc phẩm đã gắn liền với tên tuổi của một số nghệ sĩ sẽ mang đến những cảm nhận mới mẻ cho người nghe. Anh Hoàng Sơn lấy ví dụ về ca khúc “Tiến quân ca” qua giọng hát của Tùng Dương, trở nên gần gũi hơn, không mang nhiều âm hưởng thính phòng như bản gốc, nhưng vẫn tràn đầy niềm tự hào dân tộc.

Tại buổi trò chuyện, các diễn giả cũng đã giải thích lý do tại sao âm nhạc của Văn Cao được xem là một di sản. Theo nhà văn Trương Quý, ca từ trong các sáng tác của Văn Cao rất tinh tế, gợi nhiều liên tưởng, đặc biệt là trong các ca khúc như “Thiên thai” và “Bến xuân”. Những bản hùng ca cách mạng của ông thường ngắn gọn, dễ đi vào lòng người. Hơn nữa, Văn Cao luôn tâm niệm tìm kiếm sự khác biệt trong âm nhạc của mình.
Họa sĩ Văn Thao phân tích rằng những vật thể và giá trị tinh thần tồn tại qua thời gian, được thế hệ sau nhắc nhớ và tìm lại những câu chuyện bên lề, đó chính là di sản. Đến nay, những nhạc phẩm của Văn Cao vẫn mang đến cho người nghe nhiều cung bậc cảm xúc và khơi gợi sự trăn trở khi tìm hiểu về bối cảnh ra đời của chúng.
Một ví dụ điển hình là bài hát “Làng tôi”, được Văn Cao sáng tác vào năm 1947. Sau ngày toàn quốc kháng chiến, ông cùng các văn nghệ sĩ tản cư ra Hà Nội để chuẩn bị lên chiến khu. Điểm tập kết đầu tiên của ông là huyện Ứng Hòa, gần sông Nhuệ. Trong cuốn sách “Văn Cao – Người đi dọc biển” của Nguyễn Thụy Kha, có đoạn Văn Cao nhớ lại hoàn cảnh sáng tác ca khúc: “Buổi chiều đi bên bờ sông của vùng Ba Thá, huyện Chương Mỹ, Hà Đông, nghe tiếng chuông nhà thờ bing boong buồn lắm. Nhịp và giai điệu bài hát ‘Làng tôi’ chảy ra từ tối ấy”. Hình ảnh bóng cau, con thuyền, dòng sông, nhà thờ ở huyện Vụ Bản, Nam Định ùa về trong ký ức của nhạc sĩ, dâng lên trong ông nỗi nhớ quê hương. Đây cũng là nhạc phẩm ông dành tặng vợ nhân ngày cưới, do cuộc kháng chiến chống Pháp bắt đầu sớm hơn dự định, khiến nhạc sĩ không kịp tổ chức một buổi lễ trang trọng tại Hà Nội.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Thụy Kha từng nhận định: “Văn Cao là trời cho”, ý chỉ âm nhạc của ông có khả năng tái hiện lịch sử và mang tính dự báo. Ca sĩ Ánh Tuyết, một trong những giọng ca đã thể hiện thành công nhiều bài hát trữ tình của Văn Cao, cho rằng âm nhạc của ông là những câu chuyện đời, những cảm xúc chân thật từ con người nhạc sĩ. Các sáng tác của ông vừa chứa đựng tình yêu nước, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa Đông Tây.
Talkshow này là một phần của minishow “Én dệt trời xuân”, do nhóm sinh viên khoa Công nghiệp văn hóa và Di sản, trường Khoa học liên ngành và nghệ thuật, Đại học Quốc gia Hà Nội, thực hiện. Chương trình còn có các tiết mục hoạt cảnh trên nền ca khúc “Tiến về Hà Nội” và biểu diễn ca khúc “Mùa xuân đầu tiên”.
Lưu Gia Linh, trưởng ban tổ chức, chia sẻ rằng cô đã gặp không ít khó khăn trên hành trình khám phá âm nhạc của Văn Cao. Nhưng theo thời gian, Gia Linh cùng nhóm bạn đã dần gắn kết những ký ức của tập thể, trân trọng những giá trị mà nhạc sĩ để lại qua từng ca từ, giai điệu, và ý thức hơn về trách nhiệm của người trẻ trong việc gìn giữ di sản này.
Admin
Nguồn: VnExpress