Năm 2018, Hải, một phụ nữ quê Lạc Sơn, Hòa Bình, trở về thăm nhà sau hai năm kết hôn với người chồng Hàn Quốc. Chuyến đi này đánh dấu sự tan vỡ giấc mơ về một cuộc sống ổn định nơi xứ người.
Chồng của Hải là một tài xế ở thành phố Daegu, hơn cô 20 tuổi. Họ gặp nhau lần đầu vào mùa hè năm 2016 và nhanh chóng quyết định tiến tới hôn nhân. Sau bảy tháng học tiếng Hàn, Hải sang Hàn Quốc sinh sống cùng bố mẹ chồng đã ngoài 70 tuổi. Chồng cô thường xuyên vắng nhà vì công việc, chỉ trở về vào cuối tuần.
Cuộc sống ở Hàn Quốc khác xa những thước phim lãng mạn mà Hải từng xem. Dù không phải chịu áp lực từ bố mẹ chồng, cô vẫn cảm thấy u uất, chán nản, đặc biệt là vào những mùa đông lạnh giá ở Daegu. Hằng ngày, Hải đến trung tâm văn hóa để học tiếng, trong lúc chờ đợi tìm kiếm cơ hội việc làm.

Sau lần sảy thai đầu tiên, Hải bị mất ngủ, thường xuyên khóc và nhớ nhà. Đến lần mang thai thứ hai, cô xuất hiện các triệu chứng lo âu, trầm cảm nặng, thậm chí thường xuyên nói chuyện một mình. Mẹ chồng đã đưa cô đi khám và điều trị ở nhiều bệnh viện, trung tâm trị liệu nhưng tình hình không cải thiện.
Hải quyết định trở về Việt Nam để chữa bệnh. Sau ba tháng, tâm lý của cô dần ổn định, nhưng những cuộc gọi từ chồng ngày càng thưa thớt. Anh đề nghị ly hôn với lý do lo sợ bệnh của cô có thể tái phát, khiến Hải cảm thấy “sụp đổ và bế tắc”.
Trong suốt thai kỳ, Hải khóc rất nhiều, tâm trí rối loạn, nhiều lúc không phân biệt được thực tại và giấc mơ. Vì đang mang thai, cô không thể xin việc, mọi chi tiêu đều phụ thuộc vào bố mẹ làm nông. Ngày đi sinh, Hải không khỏi xót xa khi thấy gia đình phải vay mượn tiền. Hơn một năm sau, chồng gửi tiền để cô sang Hàn Quốc hoàn tất thủ tục ly hôn. Tại phiên tòa năm 2019, chồng cô đồng ý chu cấp 150.000 won (tương đương ba triệu đồng) mỗi tháng, sau đó tăng lên sáu triệu đồng.
Trở về Việt Nam, Hải vất vả tìm việc, cuối cùng được nhận vào một xưởng may gần nhà và một mình nuôi con. Cô phải dùng thuốc điều trị trầm cảm từ năm 2019 đến nay. Hải tâm sự: “Ở quê tôi, hiếm người đàn ông nào chấp nhận phụ nữ từng đổ vỡ, lại khó sinh con”.
Hải là một trong số 27.400 phụ nữ Việt Nam đã ly hôn chồng Hàn Quốc từ năm 2000 đến 2024, theo thống kê của chính phủ Hàn Quốc. Con số này chiếm 22% tổng số cuộc hôn nhân giữa hai quốc gia trong cùng giai đoạn, tương đương cứ năm cô dâu Việt lấy chồng Hàn thì có một người ly hôn.
Báo cáo của Bộ Bình đẳng giới và Gia đình Hàn Quốc năm 2024 cho thấy cô dâu Việt ly hôn chiếm tỷ lệ cao nhất trong số các cuộc hôn nhân đa văn hóa ở quốc gia này. Đáng lo ngại, hơn 82% phụ nữ Việt Nam sau ly hôn phải đối mặt với khó khăn tài chính và một mình nuôi con nhỏ.
Bà Hoàng Thị Hà, trưởng nhóm hỗ trợ phụ nữ Việt ở thành phố Incheon, cho biết: “Nếu không có quốc tịch và công việc, họ không có lựa chọn nào khác ngoài việc trở về nước”.
Bà Hwang Kwi Ja, quản lý Trung tâm Chính sách Nhân quyền Liên hợp quốc Hàn Quốc (KOCUN), một tổ chức chuyên hỗ trợ phụ nữ di trú kết hôn và hồi hương, nhận định rằng các cuộc hôn nhân chóng vánh qua môi giới dễ đẩy phụ nữ vào hoàn cảnh khó khăn, thậm chí bi kịch. Khi trở về nước, họ trở thành nhóm yếu thế và đối mặt với nhiều vấn đề.
Một trong những khó khăn đầu tiên là việc chấm dứt hôn nhân về mặt pháp lý do thiếu thông tin và sự khác biệt trong hệ thống luật pháp. Một số người phải tìm đến các dịch vụ trung gian với chi phí đắt đỏ, dẫn đến nợ nần và kéo dài tình trạng nghèo đói.
Về mặt kinh tế, họ mất cơ hội phát triển sự nghiệp, thiếu kỹ năng và kinh nghiệm làm việc, đồng thời phải gánh thêm các khoản nợ từ chi phí hồi hương và ly hôn. Quá trình tái hòa nhập của họ cũng vô cùng gian nan do bị kỳ thị xã hội, bị coi là “thất bại trở về”, tạo gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Bà Hwang chia sẻ với VnExpress: “Điều này gây ra tổn thương tâm lý sâu sắc, dẫn đến cảm giác tự ti, mất lòng tự trọng và tự cô lập sau những chấn thương từ ly hôn và bạo lực gia đình”.
Thanh Thảo, 43 tuổi, ở Hải Phòng, cùng con trai Kim Min-jun, đã phải chịu đựng những điều đó kể từ khi trở về nước. Năm 2006, chị kết hôn qua mai mối, nhưng khi đến Hàn Quốc, Thảo thất vọng vì cuộc sống khác xa so với những gì bà mối đã giới thiệu.
Chồng của Thảo hơn cô 24 tuổi, nghiện rượu, thất nghiệp và đã trải qua bốn đời vợ. Họ sống trong một căn nhà ở huyện miền núi gần biên giới, nơi cô phải sống chung với con riêng của chồng, người hơn cô bốn tuổi.
Năm 2009, khi con trai được hai tuổi, Thảo viện cớ bố ốm nặng để về Việt Nam thăm nhà. Chồng Thảo giữ toàn bộ hộ chiếu và giấy tờ tùy thân để đảm bảo cô không bỏ trốn.
Trong thời gian Thảo ở Việt Nam, người đàn ông này vẫn say xỉn và bạo hành, khiến Thảo sợ hãi và bỏ chạy. Hai ngày sau, anh ta không tìm được vợ nên quay về Hàn Quốc và báo với bà mối rằng “cô dâu đã bỏ trốn”.
Thảo vào TP.HCM làm nghề rửa bát thuê, sau đó ra Hà Nội giúp việc. “Đau lòng nhất là con tôi trở thành ‘người rơm’ – không giấy tờ và không có danh phận”, Thảo nghẹn ngào.
Bé Min-jun mang quốc tịch Hàn Quốc, đồng nghĩa với việc cứ ba tháng phải gia hạn thị thực, trong khi Thảo không đủ khả năng tài chính. Toàn bộ giấy tờ, bao gồm giấy khai sinh và hộ chiếu của con, đều do chồng giữ. Cậu bé cũng không thể đến trường.
“Đó là nỗi ân hận lớn nhất trong cuộc đời tôi”, Thảo tâm sự.
Admin
Nguồn: VnExpress