Để đánh giá tình trạng thừa cân và béo phì ở người châu Á, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) sử dụng chỉ số BMI (Body Mass Index) làm thước đo chính. Theo đó, người có chỉ số BMI từ 23 đến 24.9 được xem là thừa cân. Mức BMI từ 25 đến 29.9 được xếp vào nhóm béo phì độ một, và BMI từ 30 trở lên được coi là béo phì độ hai, mức độ cao nhất theo tiêu chuẩn này. Ở các nước phương Tây, mức độ béo phì nghiêm trọng nhất là khi chỉ số BMI đạt từ 40 trở lên, được gọi là béo phì độ ba.
Với chỉ số BMI là 24.5, bạn đang ở trong nhóm thừa cân. Dù chưa đạt ngưỡng béo phì, bạn vẫn cần lưu ý vì nguy cơ mắc các bệnh chuyển hóa như tiểu đường, tăng huyết áp và rối loạn lipid máu đã tăng cao. Việc điều chỉnh lối sống thông qua chế độ ăn uống hợp lý và tăng cường vận động là rất quan trọng để ngăn chặn nguy cơ tiến triển thành béo phì.
Ngoài chỉ số BMI, các chuyên gia y tế còn sử dụng các phương pháp khác để đánh giá chính xác hơn tình trạng mỡ thừa trong cơ thể. Một trong số đó là tỷ lệ mỡ cơ thể (Body Fat Percentage – BFP), cho biết phần trăm trọng lượng cơ thể là mỡ. Chỉ số này rất quan trọng vì có những người có BMI bình thường nhưng tỷ lệ mỡ cơ thể lại cao, làm tăng nguy cơ mắc bệnh. Ngược lại, những người có nhiều cơ bắp có thể có BMI cao nhưng không bị coi là béo phì.

Một cách phân loại khác dựa trên vị trí tích tụ mỡ trong cơ thể. Dạng tích tụ mỡ kiểu “quả táo” là khi mỡ tập trung chủ yếu ở vùng bụng và nội tạng, làm tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, tiểu đường và hội chứng chuyển hóa. Trong khi đó, dạng “quả lê” là khi mỡ tập trung ở hông, đùi và mông. Dạng này thường ít liên quan đến các bệnh chuyển hóa nhưng có thể gây ảnh hưởng đến hệ xương khớp.
Để có được đánh giá chi tiết và chính xác về nguy cơ sức khỏe liên quan đến béo phì, bạn nên đến các cơ sở y tế có đầy đủ trang thiết bị và đội ngũ bác sĩ chuyên môn cao để được tư vấn và thực hiện các xét nghiệm cần thiết.
Admin
Nguồn: VnExpress