Tương lai nào cho chợ truyền thống Việt Nam?

Những năm tháng khó khăn ở Đông Âu và bài học cho kinh tế Việt Nam hiện tại

Vào thời điểm lịch sử đầy biến động, người Việt ở nước ngoài đứng trước nhiều lựa chọn ngã rẽ cuộc đời. Một bộ phận nhỏ quyết định hồi hương, trong khi một số khác tìm đường vượt biên sang Đức để tị nạn. Phần lớn vẫn chọn ở lại, dõi theo tình hình tại nước sở tại. Giữa những ngã rẽ ấy, tôi quyết định không trở về Nga mà chuyển đến Ba Lan, nơi có người quen sinh sống.

Để kiếm sống nơi xứ người, những người Việt như chúng tôi buộc phải dấn thân vào con đường buôn bán. Phương thức đơn giản nhất là nhận hàng chịu từ các chủ người Việt, bày bán trên vỉa hè. Sau khi bán hết, chúng tôi trả lại tiền gốc và tiếp tục lấy hàng mới. Mặt hàng chủ yếu là quần áo, được một số người nhập từ Việt Nam bằng đường hàng không.

Lần đầu tiên bán hàng là một trải nghiệm đầy bỡ ngỡ. Chúng tôi chọn những vỉa hè đông người qua lại, trước các ga tàu điện ngầm hoặc tòa nhà cao tầng, trải tấm bạt xuống và bày hàng hóa. Gian hàng tạm bợ của tôi thường thu hút đông đảo người xem và trả giá. Vốn tiếng Nga tích lũy được trong những năm đại học trở nên hữu dụng, bởi tiếng Ba Lan và tiếng Nga có nhiều điểm tương đồng.

Vào cuối ngày, khi trở về nhà trọ, kiểm kê hàng hóa và đếm lại tiền, tôi thu được hơn 100 đô la Mỹ. Một số bạn bè còn kiếm được nhiều hơn thế. Chúng tôi không khỏi ngỡ ngàng, bởi chỉ vài tháng trước, mức lương của một bác sĩ trẻ ở Việt Nam chỉ tương đương 20 đô la Mỹ mỗi tháng. Vì vậy, chúng tôi tạm gác lại những sĩ diện cá nhân và lao vào buôn bán.

Vào thời điểm đó, các nước Đông Âu vừa mới chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường. Quá trình chuyển đổi sản xuất diễn ra chậm chạp, các quầy hàng trống trơn, chỉ có một số ít hàng hóa đắt đỏ nhập từ Tây Âu. Người dân thiếu thốn mọi thứ, và quần áo từ Việt Nam, dù có thể có lỗi nhỏ, vẫn được tiêu thụ nhanh chóng.

Không chỉ Ba Lan, mà cả khu vực Đông Âu trở thành một “chợ trời” rộng lớn. May mắn thay, Việt Nam đã chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường sớm hơn vài năm, trở thành nguồn cung hàng hóa cho Đông Âu. Các mặt hàng phổ biến nhất bao gồm áo gió cho nam giới, áo sơ mi cổ đăng ten cho phụ nữ lớn tuổi và áo polo cho thanh niên. Nguồn gốc sản phẩm thường từ Cổ Nhuế ở miền Bắc hoặc Epco – Minh Phụng nếu hàng được nhập từ miền Nam. Các nhãn hiệu nổi tiếng như Adidas, Nike, Lacoste… đều có mặt.

Sau một thời gian buôn bán và tích lũy được vốn, một số người nhanh nhạy đã chuyển sang nhập khẩu trực tiếp từ Việt Nam bằng container đường biển. Mạng lưới nhập khẩu và phân phối hàng hóa Việt Nam ở Đông Âu do người Việt điều hành dần hình thành.

Nhờ hoạt động buôn bán thuận lợi và việc trốn thuế dễ dàng (do giá khai báo nhập khẩu rất thấp), người Việt ở Đông Âu đã nhanh chóng trở nên giàu có. Họ chỉ phải trả chi phí vận chuyển và kho bãi. Liệu chính quyền địa phương có biết về tình trạng này không? Chắc chắn là họ biết, nhưng họ chọn cách làm ngơ, bởi người Việt Nam cần cù làm ăn và ít khi dính líu đến các tổ chức tội phạm. Các cảnh sát Ba Lan hiền lành cũng không gây khó dễ cho chúng tôi về hộ chiếu hay giấy phép bán hàng, mà chỉ đứng quan sát từ xa. Thậm chí, cảnh sát còn bảo vệ trật tự cho chúng tôi bán hàng và bảo vệ chúng tôi khỏi các tổ chức đầu trọc trấn lột.

Lý do chính quyền địa phương làm ngơ là vì họ hiểu và thực thi một cách khôn ngoan cái mà các nhà kinh tế gọi là “kinh tế vùng xám”. Người Việt khi đó đang đáp ứng nhu cầu hàng hóa thiết yếu cho người dân địa phương. Thậm chí, chính quyền còn ngầm ủng hộ và khuyến khích người Việt mở rộng buôn bán, biến Ba Lan thành cửa ngõ cho hàng hóa từ Đông Nam Á vào Đông Âu. Họ hiểu rằng chính phủ trung ương có thể không thu được thuế, nhưng tiền sẽ chảy vào túi các thương nhân người Ba Lan, và cuối cùng thì dân giàu nước mạnh.

Quan Thế Dân

Tuy nhiên, sau một vài năm, thị hiếu của người dân địa phương thay đổi. Các loại hàng hóa giá rẻ từ Việt Nam không còn được ưa chuộng nữa. Chúng ta đã chậm trễ trong việc cải tiến sản phẩm và đánh mất một thị trường Đông Âu rộng lớn. Những người Việt ở lại chuyển sang bán các mặt hàng cao cấp hơn, như quần jean Thái Lan, giày dép Trung Quốc, áo len Thổ Nhĩ Kỳ… Các chủ hàng người Việt giờ đây đã trở thành những thương nhân quốc tế, bay đến các nước để ký kết hợp đồng nhập hàng.

Vào thời điểm này, tôi quyết định trở về Việt Nam để tiếp tục làm việc. Bạn bè tôi vẫn ở lại buôn bán và cho biết các khu chợ ở Ba Lan cũng dần thay đổi. Không còn cảnh bày hàng trên vỉa hè nữa, mà thay vào đó là những ki-ốt đàng hoàng. Các thương nhân xuất nhập khẩu dần quen với việc đóng thuế đầy đủ. Ở các chợ lẻ, việc lấy hóa đơn mua hàng cũng trở nên phổ biến. Chính quyền dần đưa các hoạt động kinh tế vùng xám vào khuôn khổ. Giai đoạn “chợ trời” của kinh tế Đông Âu kéo dài khoảng 15 năm.

Những ký ức này ùa về trong tôi khi xã hội đang xôn xao trước tình trạng các chợ và các khu phố buôn bán nhỏ ở Hà Nội, TP.HCM đóng cửa hàng loạt do lo ngại về việc áp dụng chính sách thuế mới cũng như các đợt truy quét hàng giả, hàng thiếu nguồn gốc xuất xứ. Tôi nghĩ rằng chúng ta có thể tham khảo các chính sách và bài học cũ.

Thói quen kinh doanh nhỏ lẻ không lấy hóa đơn, cho nợ tiền hàng… là tập quán buôn bán lâu đời của người Việt. Trong vấn đề này, cần tách biệt hai khía cạnh: hàng giả, hàng nhái và nghĩa vụ thuế.

Theo quan điểm của tôi, đối với thực phẩm và thuốc chữa bệnh, tuyệt đối không thể chấp nhận hàng giả, hàng nhái vì chúng liên quan trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng con người. Hàng giả, hàng nhái trong lĩnh vực này cần phải bị xử phạt nghiêm khắc.

Hàng giả và hàng nhái trong các lĩnh vực khác, như hàng tiêu dùng, cũng cần loại bỏ triệt để, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa sâu rộng và các vấn đề về sở hữu trí tuệ trong kinh tế thương mại ngày càng được chú trọng và bảo vệ. Tuy nhiên, tôi đồng ý với quan điểm rằng vấn đề này nên được xử lý một cách linh hoạt, có lộ trình kéo giãn, cân nhắc đến lịch sử phức tạp của văn hóa tiêu dùng ở Việt Nam.

Về nghĩa vụ thuế, nên có sự phân hóa về mức độ. Trong cuộc sống, không phải lúc nào cũng có thể phân định rõ ràng trắng đen. Kinh tế cũng vậy, luôn tồn tại một “vùng xám”. Trong vùng này, số tiền thuế thu được không lớn nếu tính trên tỷ trọng đóng góp vào ngân sách. Theo Cục Thuế – Bộ Tài chính, trong 3 tháng đầu năm 2025, tổng thu thuế từ hộ kinh doanh và cá nhân kinh doanh đạt 8.695 tỷ đồng, tăng 25,7% so với cùng kỳ năm 2024, nhưng chỉ chiếm khoảng 1,5% tổng thu ngân sách từ thuế quý 1 năm 2025.

Khoản thất thu này không mất đi đâu, mà nó có tác dụng giúp người dân củng cố cuộc sống và tự tạo việc làm cho chính mình. Khi người dân sung túc, chính quyền cũng sẽ giảm bớt gánh nặng.

Về mặt thị trường, các chợ truyền thống cũng dần thu hẹp lại, hàng hóa cấp thấp và kiểu buôn bán cổ truyền sẽ giảm dần thị phần. Người tiêu dùng chuyển sang lựa chọn siêu thị, cửa hàng tiện lợi với hàng hóa có hóa đơn chứng từ rõ ràng, có máy tính tiền kết nối với cơ quan thuế. Khi đời sống của người dân được nâng cao, các hình thức bán hàng văn minh dần sẽ chiếm ưu thế.

Nói cách khác, cùng với thời gian và sự tiến bộ của xã hội, các hoạt động kinh tế đen sẽ bị triệt tiêu, kinh tế vùng xám sẽ từ từ thu hẹp, và vùng kinh tế minh bạch sẽ dần chiếm vị trí chủ đạo. Không nên quá nôn nóng đẩy nhanh sự chuyển đổi để vô tình đẩy một bộ phận kinh tế xám thành kinh tế đen, điều mà cả người dân và chính quyền đều không mong muốn.

Quan Thế Dân

Admin


Nguồn: VnExpress

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *