Giữa tháng 6, Đinh Hiền, 20 tuổi, người dân tộc Ba Na ở xã Ayun, huyện Chư Sê, trở về nhà sau một ngày làm việc vất vả trên rẫy. Vừa dựng chiếc máy gieo lúa dựa vào thềm nhà, cô tháo chiếc gùi khỏi lưng, đứa con trai hai tuổi đã vội chạy đến ôm chầm lấy mẹ, khóc đòi bú.
Liếc nhìn vào căn nhà bê tông rộng khoảng 20 mét vuông, Hiền thấy chồng mình, một thanh niên 19 tuổi, vẫn đang ngủ say trên chiếc giường ngổn ngang quần áo và chăn màn. Cô thở dài, cảm thấy chán nản, nhưng không muốn trách móc chồng, bởi cô đã quen với cảnh này từ khi bước vào cuộc sống hôn nhân khi còn quá trẻ.
“Nếu biết trước tương lai sẽ như thế này, em đã không lấy chồng sớm,” Hiền tâm sự.
Mất mẹ từ sớm, bố đi bước nữa, Hiền sống cùng bảy anh chị em trong một căn nhà xập xệ ở vùng đất khó khăn của huyện Chư Sê. Bốn năm trước, khi mới 16 tuổi và còn là học sinh lớp 9, Hiền tình cờ quen một chàng trai cùng xã. Cô gái trẻ quyết định nghỉ học giữa chừng và được hai bên gia đình tổ chức một đám cưới giản dị, với “của hồi môn” chỉ là một chai rượu và một con gà.
Bước vào cuộc sống hôn nhân với những suy nghĩ ngây thơ, Hiền tin rằng chỉ cần hai vợ chồng cùng nhau cố gắng, chăm chỉ làm ăn thì cuộc sống sẽ bớt vất vả, con cái sẽ không phải chịu cảnh thiếu thốn.
Hàng ngày, Hiền dậy từ sớm để lên nương, làm thuê đủ mọi việc, từ cuốc đất, phát cỏ đến hái cà phê, để kiếm tiền lo cho gia đình. Chồng cô thỉnh thoảng cũng theo vợ lên rẫy, hoặc ra sông đánh cá mang về nấu ăn hoặc bán để kiếm thêm thu nhập.
Nhưng khoảng thời gian đó không kéo dài. Chỉ vài tháng sau, Hiền nhận thấy chồng mình ngày càng ít ra khỏi nhà, bỏ bê công việc đồng áng. Anh bắt đầu tụ tập bạn bè nhậu nhẹt, say sưa từ sáng đến tối.
Nhiều hôm, sau một ngày làm thuê vất vả trở về, Hiền lại phải tất tả xuống bếp, dọn dẹp nhà cửa trong khi chồng vẫn còn đang say khướt. “Chồng ham rượu chè, không chịu làm ăn là nguyên nhân chính khiến cả hai thường xuyên cãi vã,” Hiền nói, và mô tả cuộc sống hôn nhân của mình tràn ngập bạo lực và nước mắt.
Dần dần, cô gái trẻ không còn dám trông chờ vào ai khác ngoài chính mình. Hiền bắt đầu trưởng thành, học cách đối mặt với khó khăn và nhận ra rằng tình yêu và sự cố gắng thôi là chưa đủ, mà còn cần sự thấu hiểu và đồng hành.
Năm 2023, Hiền sinh đứa con đầu lòng, nhưng mọi việc đều do một mình cô gánh vác, cùng với sự giúp đỡ của người thân. “Nếu không vì con, có lẽ em đã chọn cách ly hôn,” Hiền tâm sự, và nhận ra rằng thực tế cuộc sống hôn nhân không hề giống như những gì cô từng mơ mộng. Những ảo tưởng ban đầu dần tan biến, thay vào đó là áp lực kinh tế, gánh nặng mưu sinh và những khác biệt trong quan điểm sống.

Hiền chỉ là một trong số hàng nghìn thiếu nữ ở Tây Nguyên rơi vào vòng xoáy tảo hôn, một vấn nạn phổ biến ở vùng sâu vùng xa, nơi sinh sống của các đồng bào dân tộc thiểu số như Ba Na, Jrai, Xê Đăng… Nguyên nhân chính xuất phát từ hoàn cảnh kinh tế khó khăn, nhận thức hạn chế và sự thiếu can thiệp hiệu quả từ gia đình, nhà trường và chính quyền địa phương.
Theo kết quả điều tra thu thập thông tin năm 2019 của Ủy ban Dân tộc và Tổng cục Thống kê, tỷ lệ tảo hôn ở khu vực Tây Nguyên là 27,5%, cao nhất cả nước. Riêng tỉnh Gia Lai, từ năm 2021 đến 2023 đã ghi nhận trên 2.200 trường hợp tảo hôn, với các cô gái chỉ từ 13 đến 17 tuổi và các chàng trai từ 16 đến 17 tuổi.
Những cô gái vị thành niên sau khi kết hôn thường phải bỏ học, phụ thuộc vào chồng, mất đi cơ hội phát triển bản thân. Họ không có bằng cấp, không có nghề nghiệp ổn định và thiếu kiến thức về chăm sóc sức khỏe sinh sản. Nhiều trường hợp sinh con gặp biến chứng nguy hiểm đến tính mạng cả mẹ và bé.
Hậu quả của tảo hôn không chỉ ảnh hưởng đến cá nhân mà còn tác động tiêu cực đến cả cộng đồng. Tảo hôn dẫn đến tình trạng sinh con sớm, tỷ lệ đói nghèo cao, làm tăng gánh nặng cho hệ thống y tế, giáo dục và an sinh xã hội. Trẻ em sinh ra từ các bậc cha mẹ vị thành niên có nguy cơ bị suy dinh dưỡng, chậm phát triển về thể chất và trí tuệ. Về lâu dài, tình trạng này tạo ra một vòng luẩn quẩn của đói nghèo và lạc hậu.

Tương tự như Đinh Hiền, Diễm My, 15 tuổi, ở xã Ayun cũng phải nghỉ học giữa chừng khi đang học lớp 7 để kết hôn với một người hơn mình hai tuổi. Một tháng trước, em đã sinh đứa con đầu lòng tại bệnh viện sau một ca chuyển dạ khó khăn. Do không có đủ giấy tờ tùy thân, My buộc phải nhờ chị gái đứng tên nhận con nuôi để làm giấy chứng sinh, giấy khai sinh và các giấy tờ cần thiết khác.
My không biết con mình mắc bệnh gì khi đứa bé liên tục quấy khóc, toàn thân nổi mẩn đỏ và vành tai bắt đầu lở loét. Cô gái trẻ bối rối, bế con sang nhờ chị gái chăm sóc giúp, rồi chiều hôm đó họ đưa bé đến bệnh viện để điều trị.

Mọi chi phí từ thuốc men, bỉm sữa, khám bệnh… đều do gia đình hai bên gánh vác. My không hề biết gì về chế độ thai sản, bảo hiểm y tế hay các chính sách hỗ trợ dành cho bà mẹ và trẻ sơ sinh. “Em chỉ mong con khỏe mạnh và sau này không phải bỏ học sớm như mẹ,” My nghẹn ngào nói.
Để góp phần đẩy lùi tình trạng tảo hôn, đầu tháng 6 vừa qua, Phân hiệu Học viện Phụ nữ Việt Nam đã tổ chức một lớp tập huấn về “Ứng dụng phương pháp phát triển cộng đồng dựa vào nội lực (ABCD) trong phòng ngừa tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống” cho hàng trăm học sinh, phụ huynh, già làng, trưởng bản và những người có uy tín trong cộng đồng tại Ayun, một xã đặc biệt khó khăn của huyện Chư Sê.
Bà Nguyễn Thị Oanh, Phó Giám đốc Phân hiệu Học viện Phụ nữ Việt Nam, cho biết lớp tập huấn tập trung vào việc khai thác và phát huy những nguồn lực sẵn có trong cộng đồng, thay vì chỉ tập trung vào những khó khăn và hạn chế. Phương pháp này giúp người dân nhận ra những thế mạnh của bản thân và từ đó tạo ra những thay đổi tích cực, có đủ nội lực để đẩy lùi các hủ tục và cải thiện cuộc sống của chính mình.
Các học viên được chia thành nhiều nhóm để cùng nhau thảo luận, chia sẻ hiểu biết, lập bản đồ về tài sản cá nhân và cộng đồng, từ đó xây dựng kế hoạch tuyên truyền phòng chống tảo hôn phù hợp với thực tiễn địa phương.
Admin
Nguồn: VnExpress