Theo Thạc sĩ, Bác sĩ Kiều Lệ Biên từ Trung tâm Sản Phụ khoa, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM, ước tính có đến 80% phụ nữ từng nhiễm virus HPV ít nhất một lần trong đời. Đáng chú ý, nhóm phụ nữ này có nguy cơ tái nhiễm, không chỉ cùng chủng mà còn khác chủng, cao gấp 4 lần so với những người khác. Mặc dù cơ thể thường có khả năng tự loại bỏ virus HPV trong khoảng 1 đến 2 năm nếu hệ miễn dịch hoạt động tốt, nhưng tình trạng nhiễm virus kéo dài có thể làm tăng đáng kể nguy cơ phát triển thành tiền ung thư hoặc ung thư cổ tử cung.
Bác sĩ Biên giải thích trường hợp của chị Ngát, một bệnh nhân đã tiêm phòng HPV nhưng vẫn nhiễm virus: “Khả năng chị Ngát nhiễm virus HPV có thể do chưa hoàn thành đầy đủ ba mũi tiêm, dẫn đến việc cơ thể chưa sản sinh đủ lượng kháng thể cần thiết để bảo vệ.” Hiệu giá kháng thể, hay nồng độ kháng thể đặc hiệu trong máu, càng cao thì khả năng bảo vệ cơ thể chống lại virus càng mạnh mẽ.

Kết quả soi cổ tử cung và sinh thiết của chị Ngát cho thấy tổn thương biểu mô vảy mức độ cao đã lan vào ống cổ tử cung. Đây là một dấu hiệu đáng lo ngại, cho thấy sự bất thường của tế bào vảy đã xâm nhập sâu vào bên trong, làm tăng nguy cơ tiến triển thành ung thư cổ tử cung tại chỗ hoặc xâm lấn nếu không được điều trị kịp thời. Vấn đề này trở nên phức tạp hơn do khó kiểm soát độ sâu của tổn thương.
Bác sĩ Biên nhận định rằng chị Ngát đã được phát hiện ở giai đoạn tiền ung thư cổ tử cung mức độ 3 (CIN3). May mắn thay, nếu được điều trị kịp thời, bệnh có thể được chữa khỏi hoàn toàn. Do chị Ngát chưa có con, các bác sĩ đã quyết định thực hiện thủ thuật khoét chóp cổ tử cung để loại bỏ tổn thương, đồng thời bảo tồn tử cung và duy trì khả năng sinh sản của chị. Sau phẫu thuật, chị Ngát cần tái khám định kỳ để theo dõi và phát hiện sớm nguy cơ tái phát bệnh, từ đó có phương án xử trí kịp thời. Trong tương lai, khi mang thai, chị Ngát sẽ được bác sĩ đánh giá nguy cơ hở eo tử cung hoặc cổ tử cung ngắn để cân nhắc khâu vòng cổ tử cung dự phòng sinh non nếu có chỉ định.
Tiền ung thư và ung thư cổ tử cung ở giai đoạn sớm thường không có triệu chứng rõ ràng. Tuy nhiên, một số phụ nữ có thể gặp phải các dấu hiệu như xuất huyết âm đạo bất thường sau khi quan hệ tình dục, giữa chu kỳ kinh nguyệt hoặc sau mãn kinh, tiết dịch âm đạo bất thường, đau khi quan hệ, đau vùng chậu hoặc sưng phù chi dưới. Khi các triệu chứng này xuất hiện, tổn thương thường đã rõ ràng và có thể đã lan rộng.
Virus HPV là một loại virus gây u nhú ở người, với khoảng 40 chủng có khả năng gây ra các bệnh ở đường sinh dục. Các chủng có nguy cơ cao dẫn đến ung thư cổ tử cung bao gồm 16, 18, 31, 33, 35, 39, 45, 51, 52, 56, 58, và 59. Virus HPV thường không gây ra các triệu chứng rõ ràng, có thể tồn tại lâu dài trong cơ thể và tiến triển âm thầm. HPV thường lây nhiễm qua tiếp xúc da – da hoặc da – niêm mạc với dịch tiết chứa virus, chẳng hạn như qua tiếp xúc sinh dục hoặc quan hệ tình dục. Theo bác sĩ Biên, quá trình nhiễm HPV nguy cơ cao có thể tiến triển thành ung thư xâm lấn trong khoảng 10 đến 15 năm, mặc dù trong một số ít trường hợp, quá trình này có thể rút ngắn xuống chỉ còn 1 đến 2 năm.
Hiện nay, việc tầm soát ung thư cổ tử cung cho phụ nữ từ 21 tuổi trở lên, đã quan hệ tình dục, bao gồm các phương pháp như phết tế bào cổ tử cung (Pap smear), xét nghiệm HPV và quan sát cổ tử cung bằng dung dịch axit acetic. Nếu kết quả tầm soát bất thường, bác sĩ có thể chỉ định soi cổ tử cung để kiểm tra kỹ hơn. Trong trường hợp cần thiết, bác sĩ sẽ tiến hành sinh thiết vùng nghi ngờ và gửi mẫu đi giải phẫu bệnh để chẩn đoán xác định tổn thương. Đối với trường hợp ung thư xâm lấn, người bệnh có thể được chỉ định thêm các phương pháp chẩn đoán hình ảnh như MRI để đánh giá giai đoạn bệnh.
Để phòng ngừa nhiễm HPV, các bác sĩ khuyến cáo các cặp đôi nên sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục, thực hành tình dục an toàn và tiêm ngừa vaccine HPV đầy đủ theo phác đồ. Phụ nữ trên 21 tuổi đã quan hệ tình dục nên tầm soát ung thư cổ tử cung định kỳ để phát hiện và điều trị sớm các bất thường.
*Tên người bệnh đã được thay đổi để bảo mật thông tin cá nhân.
Admin
Nguồn: VnExpress