Sau những căng thẳng leo thang, rạng sáng ngày 22/6, Mỹ đã tiến hành chiến dịch “Búa Đêm”, thực hiện một loạt các cuộc tấn công bằng tên lửa và bom xuyên phá nhằm vào ba cơ sở hạt nhân của Iran tại Fordow, Natanz và Isfahan. Đáp lại, Quốc hội Iran đã thảo luận và nhất trí về việc đóng cửa eo biển Hormuz, tuy nhiên quyết định cuối cùng vẫn cần được Hội đồng An ninh Quốc gia Tối cao phê duyệt.
Cuối cùng, Iran đã không chọn giải pháp phong tỏa eo biển. Thay vào đó, ngày 23/6, Lực lượng Vệ binh Cách mạng Hồi giáo Iran tuyên bố đã thực hiện một cuộc tấn công tên lửa “mạnh mẽ và hủy diệt” vào căn cứ không quân Al Udeid ở Qatar và một căn cứ khác tại Iraq, nơi có hàng nghìn lính Mỹ đồn trú. Mặc dù vậy, theo truyền thông Mỹ dẫn lời các quan chức Iran giấu tên, Tehran đã thông báo trước cho Doha về cuộc tấn công để giảm thiểu thương vong.
Vài giờ sau đó, Tổng thống Mỹ khi đó là ông Donald Trump tuyên bố rằng Israel và Iran đã đạt được thỏa thuận ngừng bắn, có hiệu lực từ 4h GMT ngày 24/6 (11h ngày 24/6 giờ Hà Nội). Ông Trump nhấn mạnh rằng lệnh ngừng bắn này sẽ chấm dứt 12 ngày giao tranh.
Eo biển Hormuz, có hình chữ V ngược, nằm giữa Iran, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE) và Oman. Nó đóng vai trò là tuyến đường kết nối Vịnh Ba Tư ở phía bắc với Vịnh Oman, từ đó thông ra biển Ả Rập. Eo biển này dài 161 km, với điểm hẹp nhất chỉ khoảng 33 km, và luồng hàng hải theo mỗi hướng chỉ rộng khoảng 3 km.
Theo số liệu từ Cơ quan Thông tin Năng lượng (EIA) thuộc Bộ Năng lượng Mỹ, trong năm 2024, hơn 25% lượng dầu thô giao dịch bằng đường biển trên toàn thế giới và 20% sản lượng khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) đã đi qua eo biển Hormuz. Các quốc gia như Ả Rập Saudi, Iran, UAE, Kuwait và Iraq là những nước xuất khẩu phần lớn sản lượng dầu của họ qua tuyến đường biển quan trọng này.
Trong trường hợp Iran quyết định phong tỏa eo biển Hormuz, họ có thể dễ dàng sử dụng tên lửa hoặc tàu chiến cỡ nhỏ để tấn công và ngăn chặn các tàu chở dầu, khí đốt và các mặt hàng chiến lược khác đi qua.
Do độ sâu tương đối nông của eo biển Hormuz, các tàu hàng rất dễ bị trúng thủy lôi nếu chúng được rải xuống biển. Iran được cho là sở hữu hàng nghìn quả thủy lôi, bao gồm cả các loại cũ phát nổ khi va chạm và các phiên bản hiện đại hơn, có thể nằm im dưới đáy biển và nổi lên khi phát hiện tàu đi qua.
Ông Mohammad Ali Shabani, một chuyên gia về Iran tại hãng tin Amwaj có trụ sở tại Anh, nhận định rằng lợi thế địa lý cho phép Iran tạo ra một cú sốc lớn trên thị trường dầu mỏ, đẩy giá dầu lên cao, từ đó làm tăng lạm phát và gây trở ngại cho các chính sách kinh tế.

Các cường quốc dầu mỏ ở Trung Đông hầu như không có phương án thay thế nào để xuất khẩu dầu nếu eo biển Hormuz bị phong tỏa. Mặc dù có các hệ thống dẫn dầu trên bộ, nhưng công suất của chúng còn hạn chế và đã hoạt động ở mức tối đa, đặc biệt là sau khi lực lượng Houthi ở Yemen phong tỏa Biển Đỏ để ủng hộ Hamas trong cuộc xung đột với Israel vào cuối năm 2023.
Theo dự báo của ngân hàng đầu tư Goldman Sachs và công ty tư vấn năng lượng Rapidan Energy, nếu Iran phong tỏa eo biển Hormuz, giá dầu thế giới có thể tăng vọt lên trên 100 USD một thùng. Giá dầu neo ở mức cao trong thời gian dài sẽ gây ra nhiều hệ lụy tiêu cực cho nền kinh tế toàn cầu.
Trong lịch sử, eo biển Hormuz chưa từng bị phong tỏa hoàn toàn. Trong cuộc chiến tranh Iran – Iraq vào những năm 1980, Iran đã từng rải thủy lôi xuống eo biển Hormuz để trả đũa các cuộc tấn công của Iraq vào đảo Kharg. Cuộc chiến sau đó leo thang thành “chiến tranh tàu dầu”, với việc cả hai bên tấn công tổng cộng 451 tàu trên vùng biển giữa hai nước, đẩy giá dầu và phí bảo hiểm tàu lên cao.

Khi các tàu dầu của Kuwait bắt đầu trúng thủy lôi của Iran, hải quân Mỹ đã can thiệp bằng cách điều tàu chiến hộ tống các tàu của Kuwait đi qua Vịnh Ba Tư và eo biển Hormuz. Vào năm 1988, một tàu chiến của Mỹ đã trúng thủy lôi, khiến Washington tiến hành một chiến dịch đáp trả gây thiệt hại nặng nề cho hải quân Iran. Cuộc chiến tranh Iran – Iraq kết thúc vào tháng 8 năm 1988 nhờ lệnh ngừng bắn do Liên Hợp Quốc làm trung gian.

Vào năm 2011, Iran cũng đã đe dọa phong tỏa eo biển Hormuz để đáp trả các lệnh trừng phạt từ phương Tây, nhưng sau đó đã từ bỏ ý định này.
Các nhà quan sát cho rằng Iran đã do dự trong việc sử dụng “con át chủ bài” Hormuz vì việc phong tỏa eo biển này cũng sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu dầu của chính Tehran.
Iran là quốc gia sản xuất dầu lớn thứ ba trong Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC), với sản lượng khoảng 3,3 triệu thùng mỗi ngày. Theo dữ liệu từ công ty dữ liệu năng lượng Kpler, trong tháng 5 vừa qua, Iran đã xuất khẩu 1,84 triệu thùng dầu mỗi ngày, chủ yếu là sang Trung Quốc.
Ông Matt Smith, một nhà phân tích dầu mỏ tại Kpler, nhận định rằng Iran sẽ tự gây tổn hại cho mình nếu phong tỏa eo biển Hormuz, vì điều đó đồng nghĩa với việc nước này sẽ mất đi nguồn thu quan trọng.
Ông Anthony Gurnee, cựu giám đốc điều hành của một công ty vận tải biển, cho rằng Hormuz là một quân bài thương lượng chiến lược và nếu Iran sử dụng nó, họ sẽ không còn gì để mặc cả.
Theo ông Gurnee, các chiến hạm Mỹ ở Trung Đông sẽ ngay lập tức hành động nếu Iran phong tỏa hoàn toàn eo biển Hormuz. Mỹ có Hạm đội 5 đóng quân tại Bahrain, với cam kết “bảo vệ tự do hàng hải” ở eo biển này. Ngân hàng đầu tư JPMorgan cho rằng Mỹ sẽ coi việc Iran khóa eo biển Hormuz là một “tuyên bố chiến tranh”.
Ông Hamidreza Azizi, một nhà nghiên cứu tại Viện Đức về Các vấn đề An ninh và Quốc tế, nhận định rằng về mặt chiến lược, Iran có thể hy sinh lợi ích kinh tế ngắn hạn để tạo đòn bẩy. Tuy nhiên, Tehran đã không lựa chọn phương án này vì nó đồng nghĩa với việc mất nguồn thu, đối mặt với sự phẫn nộ trong nước và nguy cơ tổn hại lâu dài về danh tiếng.
Ngoại trưởng Mỹ khi đó là ông Marco Rubio đã cảnh báo rằng việc Iran phong tỏa eo biển Hormuz là một “hành động tự sát” và tuyên bố rằng Washington vẫn còn nhiều phương án để ứng phó.
Ông Rubio trả lời phỏng vấn trên Fox News: “Nền kinh tế của các nước khác sẽ thiệt hại nặng nề hơn chúng tôi. Đó sẽ là một hành động leo thang đáng kể, dẫn đến phản ứng đáp trả từ nhiều bên khác, chứ không chỉ riêng chúng tôi”.
Admin
Nguồn: VnExpress