Trong chuyến công tác tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam vào ngày 20/6/2025, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng đã chia sẻ những quan điểm sâu sắc về định hướng phát triển của ngành nông nghiệp nước nhà, đặc biệt là đối với Học viện, cũng như tầm quan trọng của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong lĩnh vực này.
Bộ trưởng nhấn mạnh rằng, nông nghiệp Việt Nam không chỉ là một ngành kinh tế, mà còn là cội nguồn, là lịch sử, văn hóa và bản sắc của dân tộc. Mỗi người Việt đều gắn bó với quê hương, với mảnh đất nơi mình sinh ra. Việc trân trọng và gìn giữ cội nguồn là yếu tố then chốt để phát triển nông nghiệp Việt Nam một cách bền vững. Học viện Nông nghiệp Việt Nam, để vươn xa hơn, cần phải tìm về cội nguồn của nền nông nghiệp nước nhà.
Nhắc lại thành công của Khoán 10, Bộ trưởng khẳng định đây là một minh chứng cho sự đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp, giúp Việt Nam thoát nghèo và trở thành quốc gia có thu nhập trung bình. Tinh thần của Khoán 10, với việc quản lý mục tiêu thay vì quản lý quá trình, trao quyền chủ động cho người làm và chia sẻ thành quả, cần được áp dụng trong đổi mới khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Bộ trưởng cũng đưa ra những định nghĩa mở rộng về nông nghiệp, không chỉ giới hạn ở cây lúa mà còn bao gồm chế biến, y học, tăng cường sức khỏe, du lịch và nghiên cứu về sự sống. Việc mở rộng định nghĩa sẽ mở ra không gian phát triển mới, tạo ra những thách thức mới, từ đó thu hút nhân tài và các nhà khoa học.
Để Việt Nam trở nên giàu có, cần dựa vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Do đó, những người làm trong lĩnh vực này cần được tạo điều kiện để làm giàu cho đất nước và cho chính bản thân họ. Sự giàu có của nhà khoa học không đến từ các chính sách ưu đãi học hàm, học vị mà từ việc thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tạo ra giá trị cho kinh tế – xã hội.
Bộ trưởng nhấn mạnh rằng, Học viện Nông nghiệp Việt Nam chỉ thực sự trở thành đại học nghiên cứu khi nguồn thu từ đặt hàng của doanh nghiệp, nhà nước và thương mại hóa kết quả nghiên cứu chiếm tỷ lệ lớn trong tổng nguồn thu. Đồng thời, các doanh nghiệp cần sử dụng kết quả nghiên cứu của Học viện để tạo ra sản phẩm, mang lại doanh thu gấp nhiều lần chi phí nghiên cứu.
Nhà nước sẽ đánh giá tác động của Học viện đến phát triển kinh tế – xã hội để cấp kinh phí nghiên cứu. Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ theo dõi toàn bộ vòng đời của dự án nghiên cứu, từ khi bắt đầu đến khi tạo ra tác động kinh tế. Bản thân Học viện cũng cần tự đánh giá để biết mình có tạo ra giá trị cho xã hội hay không.
Chủ trương của Nhà nước là xây dựng các đại học, đặc biệt là các đại học lớn, thành các trung tâm nghiên cứu khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo hàng đầu, sánh vai với khu vực và thế giới. Học viện Nông nghiệp Việt Nam cần phải trở thành trung tâm khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trọng điểm quốc gia về nông nghiệp.
Nhìn lại chặng đường 70 năm phát triển, Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã có nhiều đóng góp lớn cho đất nước. Trong kỷ nguyên mới, khi Việt Nam cần tăng trưởng nhanh, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số và phát triển chất lượng, Học viện cần có một chiến lược phát triển mới phù hợp với xu thế thời đại và định hướng của Đảng, Nhà nước.
Bộ trưởng cũng chia sẻ về cách đổi mới quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ, từ việc chờ đợi các tổ chức khoa học công nghệ gửi đề xuất nhiệm vụ sang chủ động tìm hiểu, lắng nghe, định hướng và đặt hàng các nhiệm vụ quốc gia.
Về khoa học công nghệ, Bộ trưởng phân tích sự khác biệt giữa khoa học (tìm ra tri thức) và công nghệ (sáng tạo ra công cụ). Học viện Nông nghiệp muốn phát triển bền vững cần đi cả hai chân: khoa học và công nghệ. Trong bối cảnh thế giới có nhiều công nghệ đột phá, Việt Nam cần tự cường về công nghệ để không bị phụ thuộc và tạo ra độc lập, tự chủ cho quốc gia.
Bộ trưởng khẳng định rằng, khoa học công nghệ hưng thịnh thì quốc gia mới hưng thịnh, khoa học công nghệ mạnh thì quốc gia mới mạnh. Nông nghiệp Việt Nam muốn phát triển bền vững, muốn trở thành cường quốc về nông nghiệp thì khoa học công nghệ nông nghiệp phải thuộc nhóm cường quốc. Học viện Nông nghiệp phải là hạt nhân của quá trình này, thuộc nhóm đầu toàn cầu về khoa học công nghệ nông nghiệp.
Bộ trưởng trình bày về con đường phát triển khoa học công nghệ Việt Nam, tập trung vào phát triển kinh tế – xã hội, chuyển đổi số toàn diện, đổi mới sáng tạo toàn dân, làm chủ công nghệ chiến lược, gắn khoa học công nghệ với công nghiệp và đổi mới công nghiệp, coi nhân tài là cốt lõi và đổi mới hệ thống quản trị khoa học công nghệ.
Thể chế khoa học công nghệ cần được cải cách để khơi dậy tính chủ động, sáng tạo của nhà khoa học, kỹ sư, hướng tới tự chủ, tự cường. Cần tái cấu trúc hệ thống khoa học công nghệ, nâng cao năng lực đổi mới, loại bỏ rào cản tư duy và cơ chế, trao quyền tự chủ cho các tổ chức, cá nhân nghiên cứu.
Bộ trưởng nhấn mạnh rằng, khoa học công nghệ cần hướng đến kết quả cuối cùng là nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tăng năng suất lao động, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống và năng lực quản trị quốc gia. Khoa học công nghệ cần giải quyết các bài toán lớn của quốc gia, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và đặt trong bối cảnh chuyển đổi số.
Luật Khoa học và Công nghệ được sửa đổi thành Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, đặt đổi mới sáng tạo ngang với khoa học công nghệ để nhấn mạnh khía cạnh ứng dụng. Các tổ chức nghiên cứu khoa học công nghệ cần gắn với các tổ chức đổi mới sáng tạo. Học viện cần trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo, kết nối mạng lưới đổi mới sáng tạo toàn cầu.
Bộ trưởng cho biết, Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ hỗ trợ Học viện xây dựng trung tâm đổi mới sáng tạo ngay trong năm 2025. Khoa học công nghệ cần hướng tới làm chủ các công nghệ chiến lược, tiến tới tự lực, tự chủ và tự cường.
Chính phủ đã ban hành danh mục 11 nhóm công nghệ chiến lược và các sản phẩm chiến lược. Bộ Khoa học và Công nghệ đang tìm kiếm các tổ chức khoa học công nghệ uy tín để đặt hàng, giao nhiệm vụ.
Bộ trưởng yêu cầu các cơ quan liên quan của Bộ Khoa học và Công nghệ làm rõ với Học viện về các nhiệm vụ Học viện sẽ nhận trong năm 2025, công nghệ chiến lược gì, sản phẩm chiến lược gì, ngành công nghiệp nào.
Khoa học công nghệ cần đóng góp vào tăng trưởng GDP của đất nước, chuyển từ tư duy nghiên cứu để có kết quả trung gian sang nghiên cứu để thay đổi thực tiễn. Các nhiệm vụ khoa học công nghệ cần gắn với nhu cầu cụ thể của ngành, địa phương, doanh nghiệp, có đầu ra áp dụng, có đối tác tiếp nhận.

Cần đo lường được kết quả cuối cùng của khoa học công nghệ, đo lường được tác động của khoa học công nghệ tới tăng trưởng kinh tế, năng lực cạnh tranh quốc gia, chất lượng cuộc sống. Học viện cần theo dõi, đo lường được các kết quả nghiên cứu đi vào ứng dụng như thế nào, tạo ra doanh thu, giá trị tăng thêm, xuất khẩu mới và thu nhập cho người nông dân ra sao.
Bộ trưởng cho rằng, nghiên cứu cơ bản nên được chuyển về đại học, nơi có nhân lực tốt nhất và dồi dào nhất. Nhà nước cần có chính sách, cơ chế để xây dựng các cơ sở giáo dục đại học trở thành các trung tâm khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Nghiên cứu cơ bản cũng nên hướng tới địa chỉ ứng dụng.
Về tập trung, tránh dàn trải, Bộ trưởng yêu cầu cơ cấu lại các chương trình khoa học công nghệ, tập trung theo hướng ít mà trúng, bám sát các công nghệ chiến lược, các lĩnh vực mũi nhọn.
Về nhà khoa học, nhà nghiên cứu, Bộ trưởng nhấn mạnh rằng, nhà khoa học không chỉ là người có bài báo, có chức danh khoa học, có bằng cấp hay có giải thưởng mà phải là người có bằng sáng chế được ứng dụng trong thực tế tạo ra giá trị cao. Người nghiên cứu được khoán chi phí, được sở hữu kết quả nghiên cứu để mang đi thương mại hóa, được hưởng lợi từ thương mại hóa kết quả nghiên cứu.
Bộ trưởng cho rằng, người tài về khoa học công nghệ sẽ xuất hiện nếu có việc khó, việc lớn, có điều kiện làm việc và được hưởng một phần kết quả tạo ra.
Về chuyển đổi số, Bộ trưởng yêu cầu chuyển đổi số toàn diện hoạt động khoa học công nghệ, công tác quản lý khoa học công nghệ, xây dựng nền tảng số quản lý toàn bộ vòng đời nhiệm vụ khoa học công nghệ.
Về hợp tác quốc tế, Bộ trưởng khẳng định rằng, khoa học công nghệ có tính toàn cầu và thời đại. Hợp tác để phát triển khoa học công nghệ nước nhà và đóng góp vào khoa học công nghệ thế giới. Học viện cần xây dựng mạng lưới khoa học công nghệ toàn quốc và toàn cầu.
Cuối cùng, Bộ trưởng nhấn mạnh rằng, để đi một chặng đường dài về khoa học công nghệ cần có tầm nhìn xa, trông rộng, hoạch định toàn cục, nhưng có tập trung vào cốt lõi. Học viện Nông nghiệp cần hoạch định tầm nhìn này, nó như ngôi sao dẫn lối cho Học viện.
Admin
Nguồn: VnExpress