Theo PGS.TS.BS Nguyễn Huy Thắng, Phó chủ tịch Hội Đột quỵ Việt Nam, Trưởng Khoa Bệnh lý mạch máu não Bệnh viện Nhân dân 115, hiện chưa có bằng chứng xác định độ tuổi lý tưởng để tầm soát đột quỵ, đặc biệt ở những người không có triệu chứng bất thường. Tuy nhiên, Hội Tim mạch Mỹ (AHA) và Hội Đột quỵ Mỹ (ASA) khuyến cáo nên bắt đầu đánh giá nguy cơ đột quỵ từ tuổi 40 trong các lần kiểm tra sức khỏe định kỳ. Việc đánh giá này tập trung vào các yếu tố nguy cơ chính như tăng huyết áp, cholesterol, tiểu đường và các thói quen sinh hoạt bao gồm hút thuốc lá và sử dụng các chất gây nghiện.
Việc tầm soát đột quỵ có thể được thực hiện sớm hơn, trước 40 tuổi, đối với những người có các yếu tố nguy cơ cụ thể. Các yếu tố này bao gồm tiền sử gia đình có người thân (cha mẹ hoặc anh chị em) mắc đột quỵ hoặc bệnh tim mạch khi còn trẻ, tiền sử cá nhân bị cao huyết áp, tiểu đường, rung nhĩ, hút thuốc hoặc béo phì, hoặc đã từng trải qua cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua (TIA).
Mục tiêu của việc tầm soát là phát hiện sớm các yếu tố nguy cơ gây đột quỵ như tăng huyết áp, tiểu đường, rối loạn lipid máu, rung nhĩ hoặc các bệnh lý mạch máu. Đáng chú ý, nhiều bệnh lý trong số này có thể không gây ra bất kỳ triệu chứng nào trước đó. Việc phát hiện sớm cho phép can thiệp kịp thời thông qua thay đổi lối sống, điều trị y tế hoặc các biện pháp phòng ngừa khác, từ đó giảm nguy cơ đột quỵ.
Bác sĩ Thắng nhấn mạnh rằng tầm soát chỉ là bước đầu tiên, và việc kiểm soát chặt chẽ các yếu tố nguy cơ mới là yếu tố then chốt để phòng ngừa đột quỵ một cách hiệu quả.

Một số thống kê cho thấy độ tuổi mắc đột quỵ ở Việt Nam thường trẻ hơn so với thế giới khoảng 10 năm. Tuổi trung bình mắc đột quỵ tại Việt Nam là khoảng 62, trong khi ở các nước phát triển, con số này dao động từ 70 đến 75. Tại Bệnh viện Nhân dân 115, bệnh nhân đột quỵ nhập viện hàng ngày có độ tuổi từ năm 1970 trở xuống chiếm khoảng một nửa, thậm chí có những trường hợp chỉ khoảng 20 tuổi.
Điển hình, bệnh viện gần đây đã tiếp nhận một bệnh nhân nam 28 tuổi bị đột quỵ, tổn thương gần như toàn bộ một nửa bán cầu não, gây liệt hoàn toàn nửa người bên phải và mất khả năng ngôn ngữ. Dù các bác sĩ đã phẫu thuật mở sọ để cứu sống bệnh nhân, nhưng khả năng phục hồi hoàn toàn là rất thấp. Một trường hợp khác là một sinh viên y khoa năm thứ 6, 23 tuổi, bị đột quỵ nhồi máu não. May mắn, nhờ được điều trị kịp thời, bệnh nhân đã phục hồi hoàn toàn và không để lại di chứng.
Bác sĩ Thắng cho biết, sự gia tăng tỷ lệ đột quỵ ở người trẻ là một vấn đề đáng báo động, xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Người trẻ hiện nay có xu hướng mắc các bệnh như tăng huyết áp, tiểu đường và rối loạn lipid máu ở độ tuổi sớm hơn. Điều này chủ yếu là do lối sống ít vận động, chế độ ăn uống không lành mạnh (tiêu thụ nhiều đồ ăn nhanh, ít rau xanh) và tình trạng béo phì ngày càng phổ biến. Nhiều trường hợp đột quỵ xảy ra do người bệnh không biết mình mắc các bệnh nền này, hoặc biết nhưng lại chủ quan không kiểm soát.
Ngoài ra, áp lực từ căng thẳng tâm lý do công việc và cuộc sống đô thị, ô nhiễm không khí nghiêm trọng, thói quen hút thuốc lá, lạm dụng rượu bia và sử dụng các chất kích thích khác cũng góp phần làm tăng nguy cơ đột quỵ. Thêm vào đó, nhiều người trẻ còn thiếu nhận thức đầy đủ về các yếu tố nguy cơ và triệu chứng của đột quỵ. Tâm lý chủ quan, cho rằng đột quỵ chỉ xảy ra ở người lớn tuổi, có thể dẫn đến việc chậm trễ trong việc tìm kiếm sự chăm sóc y tế khẩn cấp, làm tăng nguy cơ tử vong hoặc các biến chứng nghiêm trọng.
Admin
Nguồn: VnExpress