Ngày 10/7, TAND Khu vực 1 TP.HCM đã tiến hành xét xử vụ tranh chấp liên quan đến việc sử dụng thẻ tín dụng giữa ông Nguyễn Trần Hưng Long (nguyên đơn, chủ thẻ tín dụng) và bị đơn là Ngân hàng Citibank. Vụ việc còn liên quan đến ông Nguyễn Phi Hùng (người sử dụng thẻ tín dụng) và Ngân hàng UOB (đơn vị mua lại mảng bán lẻ của Citibank) với tư cách là những người có quyền và nghĩa vụ liên quan.
Theo hồ sơ vụ án, vào năm 2013, ông Long ký hợp đồng mở hai thẻ tín dụng với Citibank. Ông là chủ thẻ chính, còn ông Hùng, bạn của ông, được cấp một thẻ phụ Mastercard.
Sự việc bắt nguồn từ ngày 11/02/2024, khi cả hai ông đang đi du lịch tại Mỹ thì bị trộm lấy mất ví, trong đó có các thẻ tín dụng của Citibank và một ngân hàng khác. Ông Hùng phát hiện thẻ tín dụng phụ của mình đã bị kẻ gian sử dụng để thực hiện hai giao dịch trái phép, với tổng trị giá hơn 4.900 USD (tương đương gần 127 triệu đồng).
Ngay sau khi phát hiện sự việc, ông Hùng đã thông báo cho Citibank, yêu cầu ngân hàng từ chối thanh toán các giao dịch này và đồng thời trình báo với cảnh sát tại Los Angeles, nơi xảy ra vụ trộm. Mặc dù các giao dịch vẫn đang ở trạng thái “pending” (chờ xử lý) trong hệ thống ngân hàng, Citibank đã không có biện pháp ngăn chặn kịp thời. Đến ngày 16/02, sau 4 ngày kể từ khi báo mất, hai giao dịch này vẫn được ngân hàng chấp thuận.
Khi trở về Việt Nam, ông Hùng đã liên hệ lại với Citibank để yêu cầu không phải chịu trách nhiệm thanh toán cho các giao dịch gian lận đã trình báo. Tuy nhiên, ngân hàng đã từ chối và yêu cầu ông Long (chủ thẻ chính) và ông Hùng phải thanh toán toàn bộ số tiền phát sinh.
Do lo ngại việc chậm thanh toán có thể ảnh hưởng đến lịch sử tín dụng, ông Long và ông Hùng đã tạm thanh toán số tiền 127 triệu đồng theo yêu cầu của Citibank.
Ông Long cho rằng bản thân không phải là người thực hiện giao dịch và cũng không thụ hưởng từ các giao dịch này, do đó ông đã nhiều lần yêu cầu Citibank hoàn trả số tiền đã thanh toán. Sau khi không được chấp nhận, ông đã quyết định khởi kiện ra tòa.
Trong đơn khởi kiện, ông Long yêu cầu Citibank hoàn trả toàn bộ số tiền 127 triệu đồng đã thanh toán, bồi thường hơn 9 triệu đồng tiền lãi phát sinh và 18 triệu đồng tổn thất tinh thần.
Trong quá trình thụ lý vụ án và tại phiên tòa, đại diện của Citibank cho biết ngân hàng đã chuyển nhượng toàn bộ mảng dịch vụ bán lẻ cho Ngân hàng UOB từ ngày 01/03/2023, và việc này đã được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận. Do đó, ông Long không còn là khách hàng của Citibank kể từ thời điểm đó, và các giao dịch phát sinh sau ngày 01/03/2023 thuộc trách nhiệm xử lý của UOB. Citibank cho rằng họ không có trách nhiệm đối với yêu cầu của nguyên đơn và đề nghị tòa án đình chỉ xét xử vụ án vì nguyên đơn đã khởi kiện “sai đối tượng”.
Tuy nhiên, ông Long và ông Hùng khẳng định rằng toàn bộ quá trình mở, sử dụng thẻ, trao đổi qua email, hotline và giao diện ứng dụng đều hiển thị logo Citibank. Do đó, họ vẫn tin rằng các giao dịch phát sinh là đang thực hiện với Citibank.
Ông Hùng cho biết thêm, ông đã nhiều lần xác nhận qua email rằng mình không thực hiện các giao dịch gian lận, nhưng ngân hàng lại phản hồi rằng đó không phải là giao dịch gian lận, khiến ông cảm thấy bị xúc phạm và bức xúc. Ông cũng cho biết, với thẻ tín dụng của ngân hàng khác bị mất cùng thời điểm, ngân hàng này đã xử lý và hoàn trả toàn bộ số tiền liên quan đến các giao dịch không hợp lệ ngay sau khi ông báo mất.
Luật sư Ngô Quí Linh, người bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn, cho rằng việc chuyển nhượng giữa Citibank và UOB là vấn đề nội bộ giữa hai bên và không thể chuyển toàn bộ trách nhiệm cho khách hàng. Theo luật sư, UOB đã không gửi thông báo xác nhận đến khách hàng, do đó không đảm bảo đầy đủ quy định về việc chuyển giao nghĩa vụ.
Luật sư Linh cũng viện dẫn các quy định tại Điều 369, 370 Bộ luật Dân sự 2015 về việc chuyển giao, kế thừa quyền nghĩa vụ của các bên, cho rằng việc chuyển giao hợp đồng mở thẻ tín dụng của nguyên đơn và bị đơn cho UOB là chưa phù hợp với quy định pháp luật. UOB chưa thông báo cho nguyên đơn về việc sẽ chịu trách nhiệm với các giao dịch phát sinh từ thẻ Citibank đã cấp. Do đó, quan hệ hợp đồng giữa nguyên đơn và Citibank vẫn tồn tại, và đây là lý do nguyên đơn xác định CitiBank là bị đơn để khởi kiện.
Luật sư cũng viện dẫn nhiều quy định tại Thông tư 19/2016 của Ngân hàng Nhà nước và các điều khoản sửa đổi, bổ sung, cho rằng ngân hàng có nghĩa vụ bảo vệ an toàn cho khách hàng trong quá trình sử dụng thẻ. Luật sư Linh nhấn mạnh rằng khách hàng đã báo mất và yêu cầu chặn giao dịch khi các giao dịch vẫn còn ở trạng thái “chờ xử lý”, nhưng ngân hàng đã không thực hiện, và đây là cơ sở để chấp nhận yêu cầu khởi kiện.
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Citibank cho rằng việc chuyển giao quyền sở hữu giữa Citibank và UOB là hợp pháp, và nguyên đơn đã biết và đồng ý với việc này. Thực tế, trong các thư điện tử gửi đến khách hàng đều có nội dung thông báo về việc Citibank đã chuyển giao cho UOB, và nguyên đơn vẫn tiếp tục sử dụng dịch vụ của ngân hàng mà không có bất kỳ phản đối nào.
Do đó, phía Citibank cho rằng nguyên đơn phải kiện UOB, và Citibank không có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm trong trường hợp này.
Đại diện của UOB xác nhận rằng từ ngày 01/03/2023, ngân hàng này đã nhận chuyển giao quyền và nghĩa vụ của mảng bán lẻ, và khách hàng của Citibank đã trở thành khách hàng của UOB. Do thỏa thuận giữa các bên, sau thời gian chuyển giao, các đầu mối liên hệ và logo Citibank vẫn được UOB hiển thị và sử dụng.
Về trách nhiệm đối với khoản tiền mà khách hàng phải trả khi kẻ gian sử dụng thẻ tín dụng để mua sắm, đại diện của UOB cho rằng trách nhiệm bảo vệ thẻ thuộc về khách hàng. Hơn nữa, trong trường hợp này, giao dịch bất hợp pháp được thực hiện trước thời điểm khách hàng báo cho ngân hàng về việc mất thẻ, do đó chủ thẻ phải chịu trách nhiệm. Phía UOB không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Sau nhiều giờ xét xử, HĐXX đã tuyên bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Theo HĐXX, các tài liệu và chứng cứ trong hồ sơ thể hiện rằng Citibank đã hoàn tất việc chuyển nhượng mảng bán lẻ cho UOB từ tháng 03/2023 và đã được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận.
Citibank đã gửi thông báo về việc chuyển giao này vào ngày 10/03/2024, và nguyên đơn đã biết về việc này. Giao dịch bất hợp pháp xảy ra sau thời điểm các ngân hàng hoàn tất việc chuyển giao. Tòa án đã giải thích pháp luật về việc thay đổi chủ thể này, nhưng nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu.
Ngoài ra, nguyên đơn không cung cấp được chứng cứ chứng minh việc UOB từ chối giải quyết yêu cầu khiếu nại của mình. Tòa án dành cho nguyên đơn quyền khởi kiện lại trong một vụ án khác.
Trước khi phiên tòa diễn ra, một phóng viên đã trình thẻ nhà báo và đề nghị tham dự để đưa tin, nhưng chủ tọa Hoàng Thị Ánh thông qua thư ký yêu cầu phải xuất trình thêm giấy giới thiệu (mặc dù theo quy định của pháp luật là không cần thiết).
Khi phóng viên đã bổ sung giấy giới thiệu, chủ tọa liên tục bắt bẻ và truy vấn về nguồn thông tin vụ án, cũng như lý do biết về phiên tòa. Bà Ánh sau đó chuyển giấy giới thiệu của phóng viên cho ông Nguyễn Hồng Thái, đại diện VKS, để xin ý kiến về việc có mặt của nhà báo.
Ông Thái cho rằng, theo quy định, nhà báo được phép tham dự các phiên tòa nhưng phải thông báo trước, và việc nhà báo có mặt tại phiên tòa hôm nay đã đặt HĐXX vào tình thế đã rồi. Ông đề nghị HĐXX không đồng ý cho phóng viên dự phiên tòa, nhưng không đưa ra được căn cứ pháp luật.
Trong khi đó, theo Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, VKS thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng tại các phiên tòa dân sự, nhằm đảm bảo các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng thực hiện đúng pháp luật.
Sau hơn một giờ “vừa xử án, vừa xử lý phóng viên”, chủ tọa tuyên bố đây là phiên tòa công khai, không có nội dung cần bảo mật, do đó phóng viên được phép tham dự.
Admin
Nguồn: VnExpress