Năm 2008, một cột mốc quan trọng đã được ghi dấu trong lịch sử ngành nông nghiệp Việt Nam khi lô thanh long đầu tiên, dù chỉ vỏn vẹn 2 tấn, được xuất khẩu sang thị trường Mỹ bằng đường hàng không. Sự kiện này không chỉ mở ra cơ hội mới cho trái cây tươi Việt Nam tiếp cận thị trường lớn và khắt khe bậc nhất thế giới, mà còn chứng minh khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn kiểm dịch thực vật nghiêm ngặt của nông dân Việt.
Ông Nguyễn Đình Tùng, Chủ tịch Vina T&T Group, người trực tiếp thực hiện lô hàng lịch sử này, nhớ lại: “Chi phí vận chuyển thời điểm đó rất cao, nhưng nếu không chấp nhận, chúng tôi sẽ không có cơ hội”.

Sau thành công ban đầu, Vina T&T chuyển sang vận chuyển bằng đường biển nhằm giảm chi phí. Tuy nhiên, giai đoạn này lại chứng kiến những thất bại liên tiếp khi trái cây bị hư hỏng sau hơn một tháng trên biển, dẫn đến việc hàng bị trả về hoặc phải tiêu hủy. “Mỗi container thanh long hỏng gây thiệt hại tới 30.000 USD. Đã có lúc tôi tưởng chừng phải dừng lại”, ông Tùng chia sẻ.
Đến năm 2015, sau nhiều năm thử nghiệm và đầu tư vào công nghệ bảo quản hiện đại, Vina T&T đã kiểm soát được chất lượng sản phẩm trong suốt quá trình vận chuyển dài ngày. Từ đó, hoạt động xuất khẩu sang Mỹ trở nên ổn định và có lợi nhuận.

Hiện nay, mỗi tuần Vina T&T đều đặn xuất khẩu 12 container trái cây sang Mỹ. Doanh nghiệp này đang dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu nông sản Việt Nam vào thị trường Mỹ với 7 loại trái cây, bao gồm thanh long, nhãn, chôm chôm, xoài, vú sữa, dừa và bưởi. Năm 2023, doanh thu từ thị trường Mỹ của Vina T&T đạt 80 triệu USD, chiếm 60% tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản của doanh nghiệp.
Ông Tùng tự hào chia sẻ: “Việc đưa trái cây vượt nửa vòng trái đất mà vẫn giữ được hương vị tự nhiên, khiến người tiêu dùng Mỹ tìm mua lại, là thành quả của một hệ sinh thái, từ người nông dân đến công nghệ bảo quản, tiêu chuẩn và niềm tin”.

Khác với Vina T&T, Phúc Sinh đã có một khởi đầu thuận lợi hơn khi bắt đầu xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ từ hơn 22 năm trước. Ông Phan Minh Thông, Chủ tịch Hội đồng quản trị Phúc Sinh Group, cho biết: “Việc chuẩn bị các lô hàng xuất sang Mỹ thời điểm đó diễn ra nhanh chóng, không tốn nhiều thời gian và nguồn lực”.
Sản phẩm đầu tiên mà Phúc Sinh đưa vào thị trường Mỹ là hạt tiêu, với số lượng khoảng 50 tấn. Trong suốt 10 năm sau đó, Phúc Sinh trở thành công ty xuất khẩu hạt tiêu lớn nhất vào Mỹ.
Hiện tại, khoảng 20% kim ngạch xuất khẩu của Phúc Sinh đến từ thị trường Mỹ, tương đương 50-80 triệu USD mỗi năm. Hạt tiêu vẫn là mặt hàng chủ lực, trong khi cà phê chỉ chiếm khoảng 7% doanh thu do Mỹ nhập khẩu cà phê Việt Nam không nhiều, chủ yếu từ các nước châu Âu.
Việt Nam và Mỹ thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1995 và nâng cấp lên Đối tác Chiến lược Toàn diện vào tháng 9/2023. Trong 30 năm qua, Mỹ đã trở thành một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, và ngược lại, Việt Nam trở thành đối tác thương mại lớn thứ 8 của Mỹ.
Kim ngạch thương mại song phương đã tăng trưởng ấn tượng, gấp khoảng 300 lần, từ 450 triệu USD vào năm 1995 lên gần 150 tỷ USD hiện tại. Bên cạnh nông sản, Việt Nam còn xuất khẩu sang Mỹ nhiều mặt hàng chủ lực khác như máy móc, thiết bị điện tử, giày dép, dệt may và túi xách.
Ở chiều ngược lại, Việt Nam cũng trở thành một địa điểm sản xuất và thị trường hấp dẫn đối với các nhà đầu tư Mỹ. PepsiCo, tập đoàn lớn thứ hai thế giới trong lĩnh vực thực phẩm và đồ uống, đã đầu tư gần 1 tỷ USD vào Việt Nam với 7 nhà máy và 8 trung tâm phân phối, tạo ra hơn 15.000 việc làm. Dây chuyền đầu tiên tại nhà máy Suntory PepsiCo Việt Nam bắt đầu hoạt động vào tháng 2/1994, một năm trước khi hai nước bình thường hóa quan hệ.
Tại tọa đàm kỷ niệm 30 năm quan hệ Việt – Mỹ, ông Ashish Joshi, Tổng giám đốc điều hành Suntory PepsiCo Việt Nam, khẳng định thành công của họ đã truyền cảm hứng cho các doanh nghiệp FDI tiếp tục đầu tư vào Việt Nam. “Khi kinh tế Việt Nam phát triển nhanh chóng, sự phát triển của chúng tôi cũng tương tự. Khoảng 90% các nhà cung ứng của chúng tôi là công ty nội địa. Tất cả sản phẩm công ty sản xuất ở Việt Nam là dành cho người tiêu dùng ở đây”, ông Joshi nói.
Hiện nay, Mỹ đứng thứ 11 trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Đại sứ Mỹ tại Việt Nam, ông Marc Knapper, nhận định các công ty Mỹ đang đổ xô đến Việt Nam vì họ nhận thấy tầm quan trọng của Việt Nam như một thị trường, đối tác và nguồn đổi mới. “Việt Nam có 100 triệu dân, phần lớn là những người trẻ tuổi, am hiểu công nghệ và có trình độ học vấn cao. Tôi nghĩ các công ty Mỹ và doanh nghiệp nước ngoài nhận thấy tiềm năng và chất lượng thực sự của môi trường kinh doanh tại đây”, ông Knapper nói.

Đại diện Hiệp hội Thương mại Mỹ – TP HCM (AmCham) nhận định quan hệ thương mại và đầu tư giữa hai nước trong 30 năm qua là “mạnh mẽ, bền vững và không ngừng phát triển”. AmCham khẳng định mối quan hệ này dựa trên lợi ích song phương và cam kết dài hạn, mặc dù vẫn còn những bất ổn ngắn hạn liên quan đến chính sách thuế quan.
Việt Nam và Mỹ đang đàm phán về chính sách thuế đối ứng và đã cơ bản thống nhất Tuyên bố chung về Khuôn khổ Hiệp định thương mại đối ứng. Việt Nam luôn nhất quán quan điểm thúc đẩy kinh tế – thương mại song phương theo hướng công bằng, cân bằng, ổn định và bền vững, vì lợi ích của chính phủ, người dân và doanh nghiệp hai nước.
TS. Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách của Thủ tướng, nhận xét: “Về câu chuyện đàm phán thuế quan, tôi cho rằng cơ bản Việt Nam đang làm tốt. Chúng tôi kỳ vọng và tin là kết quả sẽ tích cực cho cả Việt Nam và Mỹ”. Ông cũng đánh giá cao khả năng thích ứng nhanh chóng của các doanh nghiệp Việt Nam, khi họ chủ động tìm kiếm và mở rộng thị trường, đa dạng hóa đầu vào và đầu ra, đồng thời tích cực tham gia đối thoại giữa hai nước để đảm bảo kết quả đàm phán khả quan. “30 năm quan hệ hai nước có những khó khăn nhưng chúng ta đã vượt qua. Do vậy, không lý do gì để chúng ta không thể tiếp tục phát huy điều này”, ông Lực nói thêm.
Chính sách thuế quan của Mỹ ít nhiều gây ra tâm lý dè dặt và ảnh hưởng đến nhiều doanh nghiệp. Tuy nhiên, với kinh nghiệm hơn hai thập kỷ làm việc với thị trường này, ông Phan Minh Thông, Chủ tịch Phúc Sinh, cho rằng Mỹ là thị trường đòi hỏi phải “làm lớn”. Do đó, doanh nghiệp muốn tồn tại cần đầu tư hệ thống và xây dựng tư duy bài bản, vận hành tương thích với quy mô thị trường. Ông cũng lưu ý rằng mỗi bang tại Mỹ có luật lệ, thói quen tiêu dùng và quy định riêng, do đó doanh nghiệp cần hiểu rõ từng thị phần và khách hàng. “Để chinh phục khách hàng, tinh thần “chịu đi”, sẵn sàng học hỏi, tự tin và chủ động là yếu tố tạo nên khác biệt”, ông chia sẻ.
Theo khảo sát của AmCham vào tháng 6, hơn một phần ba (36%) số doanh nghiệp thành viên “vô cùng lo ngại” về vấn đề thuế quan, trong khi 41% “tương đối lo ngại”. Mặc dù vậy, phần lớn doanh nghiệp vẫn tin vào tiềm năng tăng trưởng trong tương lai gần của Việt Nam, bởi vai trò ngày càng quan trọng của quốc gia này trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Sự phát triển nhanh chóng của kinh tế số, nhu cầu tiêu dùng trong nước và dòng vốn đầu tư vào hạ tầng cũng là những động lực tích cực thúc đẩy đà tăng trưởng.
Đại diện AmCham khẳng định: “Bất ổn về thuế quan của Mỹ vẫn là mối quan tâm, song AmCham tin vào sự gắn kết chặt chẽ giữa hai nước sẽ đem lại ổn định”. Hiệp hội cam kết tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng của Việt Nam và thắt chặt quan hệ kinh tế Việt – Mỹ thông qua hợp tác, đối thoại chính sách và đầu tư chung vào tương lai phát triển của Việt Nam.
Pepsico là một trong những nhà đầu tư Mỹ khẳng định niềm tin vào tăng trưởng của Việt Nam và tiếp tục gia tăng đầu tư. “Năm ngoái, chúng tôi đã khởi công nhà máy thứ 6 tại Long An (nay là tỉnh Tây Ninh), đây là nhà máy có vốn đầu tư lớn nhất trong 30 năm của chúng tôi tại Việt Nam, và là nhà máy tiên tiến nhất ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương”, ông Ashish Joshi cho biết.
Đại sứ Marc Knapper nhấn mạnh tiềm năng đầu tư trong tương lai là vô hạn và Việt Nam tiếp tục là một điểm đến hấp dẫn cho các doanh nghiệp Mỹ. Ông thừa nhận luôn có những thách thức trong quan hệ thương mại, nhưng hai bên giải quyết chúng một cách tôn trọng và thẳng thắn. “Đây là cách mà những người bạn và đối tác như Mỹ và Việt Nam hợp tác. Chúng ta làm việc cùng nhau theo cách thúc đẩy lợi ích của cả hai quốc gia”, ông Knapper kết luận, khẳng định một tương lai hợp tác đầy hứa hẹn giữa hai nước.
Admin
Nguồn: VnExpress