Tại Hội nghị sơ kết công tác 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2025 của Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) diễn ra ngày 14/7, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng đã có những phát biểu quan trọng về định hướng phát triển của ngành.
Bộ KH&CN mới, được thành lập trên cơ sở hợp nhất Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) và Bộ KH&CN, đã trải qua 3 tháng rưỡi hoạt động. Với sứ mệnh đưa Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới dựa trên KHCN, đổi mới sáng tạo (ĐMST) và chuyển đổi số (CĐS), Bộ KH&CN đóng vai trò then chốt trong việc giúp Việt Nam chuyển từ quốc gia có thu nhập trung bình lên thu nhập cao.
Để đạt được mục tiêu này, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh sự cần thiết của những chuyển dịch quan trọng trong các lĩnh vực then chốt.
Trong lĩnh vực bưu chính, cần biến ngành này thành hạ tầng logistics vững mạnh, đảm bảo dòng chảy vật chất song song với dòng chảy dữ liệu, một cách nhanh chóng, chính xác và an toàn đến tay người tiêu dùng và doanh nghiệp. Sự phát triển của CĐS sẽ kéo theo sự gia tăng tải trọng lên mạng lưới bưu chính.
Đối với viễn thông, cần xây dựng hạ tầng số hiện đại, phục vụ đắc lực cho CĐS. Hạ tầng số cần được xem là hạ tầng chiến lược, tương tự như giao thông và điện, đảm bảo tính phổ cập, băng thông siêu rộng, dung lượng siêu lớn, xanh và an toàn, phục vụ cho toàn bộ nền kinh tế. Việc phủ sóng 5G sâu rộng trên toàn quốc là nhiệm vụ cấp bách từ nay đến cuối năm, với mục tiêu đạt tốc độ di động 100 Mbps và tốc độ cố định 200 Mbps.
Về CĐS, với các trụ cột chính là Chính phủ số (CPS), kinh tế số (KTS) và xã hội số (XHS), mục tiêu là xây dựng Việt Nam trở thành một quốc gia số, tạo ra một phiên bản số của thế giới thực, đảm bảo sự tương đồng giữa hai thế giới. CĐS là quá trình số hóa toàn diện, ứng dụng công nghệ số, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo (AI), để xử lý dữ liệu số. Tuy nhiên, thay đổi mô hình hoạt động mới là yếu tố then chốt để phát huy tối đa hiệu quả của CĐS. Theo đó, chi ngân sách nhà nước cho CĐS là 1% thì phải kéo theo xã hội chi cho CĐS gấp 3-4 lần như vậy, và CĐS phải tạo ra tăng trưởng kinh tế từ 1-1,5%.
Trong lĩnh vực KHCN, cần hướng tới mục tiêu cuối cùng là nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. Theo đó, một đồng ngân sách nhà nước đầu tư cho nghiên cứu phải tạo ra 10 đồng doanh thu cho doanh nghiệp. Đồng thời, một đồng nhà nước chi cho nghiên cứu và phát triển (NC&PT) cũng phải thu hút được 3-4 đồng từ doanh nghiệp. KHCN cần đóng góp 1% vào tăng trưởng kinh tế. Các nhà khoa học không chỉ nên dừng lại ở học hàm, học vị, bài báo hay giải thưởng mà cần tập trung vào tác động của kết quả nghiên cứu đối với kinh tế – xã hội của đất nước.
ĐMST là con đường để Việt Nam ứng dụng KHCN vào thực tiễn cuộc sống. Ứng dụng, đổi mới, chuyển giao, nâng cao hiệu suất và cải tiến công nghệ, tiến tới sáng tạo công nghệ là con đường để tăng năng suất lao động và tổng năng suất các yếu tố (TFP). ĐMST cần đóng góp 3% vào tăng trưởng GDP. Mỗi bộ, ngành, địa phương cần xây dựng một trung tâm ĐMST.
Đối với sở hữu trí tuệ (SHTT), cần chuyển dịch từ bảo vệ quyền sang tài sản hóa, thương mại hóa và thị trường hóa các kết quả nghiên cứu. Một quốc gia phát triển cần có tới 80% tài sản là tài sản trí tuệ. Do đó, phát triển, giao dịch và bảo vệ tài sản trí tuệ, chống trộm cắp, là trọng tâm của một quốc gia muốn phát triển. Xây dựng một xã hội không chấp nhận trộm cắp tài sản trí tuệ là nền tảng để thúc đẩy sáng tạo. Hành vi ăn cắp ý tưởng, sáng chế cần bị lên án và trừng phạt. Cần xây dựng nhận thức, đạo đức và văn hóa xã hội về SHTT.
Trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử, trọng tâm là phát triển điện hạt nhân thế hệ mới, lò hạt nhân module quy mô nhỏ. Điện hạt nhân cần trở thành điện xanh và điện nền, là một phần trong chiến lược quốc gia, và Việt Nam cần làm chủ công nghệ hạt nhân.
Về tiêu chuẩn và quy chuẩn, cần đổi mới mạnh mẽ công tác tiêu chuẩn hóa theo hướng hội nhập quốc tế. Tiêu chuẩn là định hướng phát triển quốc gia, trong khi quy chuẩn là hàng rào bảo vệ quốc gia. Số lượng tiêu chuẩn hiện tại mới chỉ đáp ứng chưa tới 5% nhu cầu phát triển.
Quốc hội khóa XV vừa qua đã thông qua 5 luật sửa đổi liên quan đến KHCN, bao gồm: Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, Luật Công nghiệp công nghệ số, Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa và Luật Năng lượng nguyên tử. Các nghị định và thông tư hướng dẫn thi hành luật sẽ được ban hành ngay trong năm 2025 để có hiệu lực đồng thời với các luật.

Các luật này có nhiều điểm mới quan trọng. Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chuyển từ quản lý quá trình sang quản lý đầu ra, gắn nghiên cứu với ứng dụng, lấy ĐMST làm động lực đưa tri thức vào thực tiễn, xây dựng đại học thành các trung tâm nghiên cứu KHCN và doanh nghiệp là trung tâm của hệ thống ĐMST.
Luật Công nghiệp công nghệ số xác định ngành công nghiệp công nghệ số là một ngành kinh tế trọng điểm, mở rộng phạm vi điều chỉnh sang dữ liệu, nền tảng số, AI, chip bán dẫn, tài sản số, kinh tế số, chú trọng tự cường thông qua phát triển doanh nghiệp công nghệ số Make in Vietnam.
Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật xác định tiêu chuẩn là định hướng phát triển quốc gia, thúc đẩy năng suất, chất lượng và đổi mới; quy chuẩn là hàng rào bảo vệ quốc gia, bảo vệ sức khỏe, môi trường, an ninh, chủ quyền kỹ thuật.
Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa chuyển từ tư duy tiền kiểm sang hậu kiểm dựa trên rủi ro, nhằm bảo vệ người tiêu dùng, giảm gánh nặng cho doanh nghiệp, thúc đẩy đổi mới và hội nhập quốc tế. Luật này cũng quy định về chuyển đổi số toàn diện, kết nối dữ liệu giữa các bộ, ngành và địa phương để xây dựng một nền tảng số quốc gia về chất lượng, thực hiện hậu kiểm trên môi trường số.
Luật Năng lượng nguyên tử tạo hành lang pháp lý để triển khai nhanh nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận, mở rộng ứng dụng năng lượng nguyên tử sang các lĩnh vực khác, xác định việc làm chủ công nghệ hạt nhân, nhất là công nghệ điện hạt nhân thế hệ mới, lò hạt nhân module quy mô nhỏ, nhằm đảm bảo điện linh hoạt cho CĐS xanh.
Từ nay đến cuối năm 2025, Bộ KH&CN sẽ phải hoàn thành và thông qua 4 luật, bao gồm Luật Chuyển đổi số, Luật Công nghệ cao (CNC), Luật Chuyển giao công nghệ và Luật Sở hữu trí tuệ.
Như vậy, chỉ riêng năm 2025, Bộ KH&CN là cơ quan chủ trì soạn thảo 9 luật liên quan đến KHCN, ĐMST và CĐS. Để hoàn thành khối lượng công việc lớn này, đòi hỏi sự nỗ lực, quyết tâm cao và cách làm việc mới.
Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đã tạo thông thoáng cho hoạt động nghiên cứu, thì Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi phải biến các kết quả nghiên cứu này thành tài sản trí tuệ để giao dịch được, tạo ra thị trường KHCN. Luật SHTT sửa đổi phải giải quyết các vấn đề như SHTT phải trở thành công cụ chiến lược để bảo vệ và chiếm lĩnh công nghệ, là công cụ cạnh tranh công nghệ, gắn kết chặt chẽ với NC&PT, ĐMST, phát triển trong môi trường số và công nghệ mới.
Luật Công nghệ cao sửa đổi nhằm tạo ra mảnh đất phát triển công nghệ cao, sản xuất ra công nghệ cao. CNC bây giờ là chiến lược tự chủ công nghệ và chủ quyền số của một quốc gia, là trụ cột chiến lược an ninh kinh tế, quốc phòng an ninh và năng lực cạnh tranh quốc gia. Luật CNC sẽ ưu đãi cho nhà đầu tư dựa trên mức độ chuyển giao công nghệ, nội địa hóa và R&D tại Việt Nam. Khu CNC sẽ chuyển đổi thành đô thị CNC, với đầy đủ các tiện ích sống để thu hút các nhà khoa học tài năng.
Luật Chuyển giao công nghệ sửa đổi nhằm đưa công nghệ tới doanh nghiệp, đổi mới công nghệ cho doanh nghiệp, để doanh nghiệp góp phần tăng năng suất lao động và tăng trưởng kinh tế. Luật này sẽ tạo khung pháp lý thuận lợi hơn nữa cho chuyển giao công nghệ, đồng thời ngăn chặn các công nghệ lạc hậu vào Việt Nam, bảo vệ môi trường.
Luật Chuyển đổi số sẽ lấp đầy các mảnh ghép còn thiếu và là một luật khung để thống nhất, kết nối các luật liên quan CĐS, nhằm hình thành một khung kiến trúc Việt Nam số hoàn chỉnh. Luật này xác định vai trò của nhà nước trong thúc đẩy CĐS là dẫn dắt, tạo điều kiện và giám sát; tạo cơ chế quản lý dữ liệu số; khung thể chế cho nền tảng số và dịch vụ số; tài chính cho CĐS; văn hóa số; phát triển nhân lực, kỹ năng số, coi ngôn ngữ số như ngôn ngữ thứ ba bên cạnh tiếng Việt để giữ gìn bản sắc và tiếng Anh để hội nhập; quản trị rủi ro và bảo đảm an toàn không gian số; giám sát và đánh giá hiệu quả CĐS.
Với 9 luật thông qua năm 2025 và 3 luật đã ban hành trước đó, Bộ KH&CN hy vọng hành lang pháp lý về KHCN đã thông thoáng cho thúc đẩy KHCN/ĐMST/CĐS.
Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng kêu gọi các đơn vị hãy bắt tay vào hành động, thực hiện những việc lớn, hướng đến kết quả cuối cùng là tăng trưởng kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân và năng lực quản trị quốc gia.
Về định hướng cụ thể, Bộ trưởng nhấn mạnh một số điểm sau:
* **Bưu chính:** Ban hành tiêu chuẩn về dịch vụ bưu chính, tiến hành đo lường và công bố công khai để chuẩn hóa và nâng cao chất lượng dịch vụ.
* **Viễn thông:** Xóa vùng lõm sóng, phủ sóng 5G toàn quốc, nâng cao chất lượng phủ sóng di động với tốc độ di động đạt 100Mbps, tăng gấp đôi so với 4G, tốc độ cố định băng rộng 200 Mbps và cung cấp dịch vụ vệ tinh tầm thấp.
* **Công nghiệp công nghệ số:** Xác lập ngành công nghiệp CNS là một ngành kinh tế trọng điểm, mở rộng phạm vi điều chỉnh sang dữ liệu, nền tảng số, AI, chip bán dẫn, tài sản số, kinh tế số, chú trọng tự cường thông qua phát triển doanh nghiệp công nghệ số Make in Vietnam. Doanh nghiệp CNS Việt Nam phải có năng lực cạnh tranh quốc tế, với doanh thu từ thị trường nước ngoài tiếp tục tăng trưởng cao 20-30%, để chậm nhất đến năm 2035, xuất khẩu CNS của Việt Nam phải lớn hơn xuất khẩu nông nghiệp.
* **Chuyển đổi số:** Luật Chuyển đổi số sẽ xác định vai trò của nhà nước trong thúc đẩy CĐS là dẫn dắt, tạo điều kiện và giám sát; tạo cơ chế quản lý dữ liệu số; khung thể chế cho nền tảng số và dịch vụ số; tài chính cho CĐS; phát triển nhân lực, kỹ năng số, coi ngôn ngữ số như ngôn ngữ thứ ba bên cạnh tiếng Việt để giữ gìn bản sắc và tiếng Anh để hội nhập; quản trị rủi ro và bảo đảm an toàn không gian số; Giám sát và đánh giá hiệu quả CĐS.
* **Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo:** Tập trung vào 10 đổi mới quan trọng đã được thể hiện trong Luật KH, CN và ĐMST.
* **Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật:** Tiêu chuẩn là định hướng phát triển quốc gia, thúc đẩy năng suất, chất lượng và đổi mới; quy chuẩn là hàng rào bảo vệ quốc gia, bảo vệ sức khỏe, môi trường, an ninh, chủ quyền kỹ thuật.
* **Chất lượng sản phẩm, hàng hóa:** Chuyển từ tư duy tiền kiểm sang hậu kiểm dựa trên rủi ro, nhằm bảo vệ người tiêu dùng, giảm gánh nặng cho doanh nghiệp, thúc đẩy đổi mới và hội nhập quốc tế. Quy định về chuyển đổi số toàn diện, kết nối dữ liệu giữa các bộ ngành để xây dựng một nền tảng số quốc gia về chất lượng, thực hiện hậu kiểm trên môi trường số.
* **Sở hữu trí tuệ:** SHTT phải biến các kết quả nghiên cứu thành tài sản trí tuệ để giao dịch được, tạo ra thị trường KHCN. Chuyển dịch quan trọng nhất của SHTT là chuyển dịch từ bảo vệ quyền sang tài sản hóa, thương mại hóa và thị trường hóa các kết quả nghiên cứu.
* **Năng lượng nguyên tử:** Việt Nam coi phát triển điện hạt nhân là chiến lược quốc gia, là điện xanh và điện nền. Đặt mục tiêu phải làm chủ công nghệ hạt nhân, đặc biệt quan tâm đến công nghệ điện hạt nhân thế hệ mới, lò hạt nhân module quy mô nhỏ.
* **Sở KHCN:** Tập trung vào các nhiệm vụ: phủ sóng di động 100% dân số và đảm bảo chất lượng; mọi dịch vụ công thực hiện trên môi trường số; hoạt động điều hành của tỉnh dựa trên Trung tâm điều hành thông minh; xây dựng TT ĐMST cấp tỉnh, tập trung vào đổi mới và ứng dụng công nghệ, tập trung giải các bài toán của tỉnh mình.
* **Doanh nghiệp CNS và KHCN:** Nhận và làm chủ các công nghệ, sản phẩm chiến lược; nhận và làm các dự án lớn của quốc gia; tập trung dùng công nghệ giải các bài toán của đất nước, giúp đất nước phát triển; tăng trưởng gấp đôi tăng trưởng GDP của cả nước; đi ra nước ngoài chinh phục thế giới, tăng năng lực cạnh tranh quốc tế.
* **Viện/trường:** Thương mại hóa được kết quả nghiên cứu. Một đồng nhà nước chi cho viện thì viện phải tạo ra 0,1-0,2 đồng doanh thu từ thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Doanh nghiệp nhận kết quả nghiên cứu của viện phải tạo ra được 5-10 đồng doanh thu từ sản phẩm dựa trên kết quả nghiên cứu.
Admin
Nguồn: VnExpress