Tại Diễn đàn Nông nghiệp 2025, ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, đã nhấn mạnh tiềm năng to lớn nhưng chưa được khai thác hiệu quả của phụ phẩm nông nghiệp tại Việt Nam.
Theo số liệu thống kê, mỗi năm Việt Nam có hơn 156 triệu tấn phụ phẩm nông nghiệp, bao gồm rơm rạ, vỏ trấu, bã mía, vỏ cà phê và chất thải chăn nuôi. Tuy nhiên, đáng tiếc là tỷ lệ tái chế và tái sử dụng chỉ đạt khoảng 10%, thậm chí ở một số ngành con số này tối đa là 35%. Phần lớn phụ phẩm không được tái chế thải ra môi trường, gây ra những hệ lụy ô nhiễm nghiêm trọng.
Bên cạnh đó, nông nghiệp cũng là một trong những ngành phát thải khí nhà kính lớn nhất, chỉ đứng sau lĩnh vực năng lượng. Theo báo cáo cập nhật Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) năm 2022, ngành nông nghiệp Việt Nam thải ra hơn 104 triệu tấn CO2e, chiếm khoảng 18% tổng lượng khí nhà kính của cả nước.
Trong khi đó, các loại phụ phẩm nông nghiệp lại chứa đựng nhiều giá trị tiềm năng. Ông Trần Mạnh Báo, Chủ tịch ThaiBinh Seed, cho biết rơm rạ có thể được sử dụng làm thức ăn cho gia súc, sản xuất phân compost hoặc viên nén sinh khối. Vỏ trấu có thể chế biến thành than hoạt tính, vật liệu cách nhiệt hoặc phân viên. Nước gạo và nước thải từ quá trình chế biến có thể được xử lý để tạo ra dinh dưỡng nuôi cá hoặc men vi sinh cho nông nghiệp sạch. Thậm chí, cám gạo còn có thể được sử dụng làm nguyên liệu trong ngành công nghiệp mỹ phẩm.
Việt Nam đã đặt ra mục tiêu đầy tham vọng là tăng tỷ lệ tái chế và tái sử dụng phụ phẩm nông nghiệp lên 70% vào năm 2030, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất thế mạnh như lúa gạo, cà phê và chăn nuôi.
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp đã và đang triển khai các sáng kiến kinh tế tuần hoàn. Điển hình như ThaiBinh Seed sử dụng vỏ trấu làm chất đốt cho nhà máy chế biến, cám để phục vụ ngành chăn nuôi, và rơm để sản xuất nấm và phân bón hữu cơ. Ông Báo cũng cho biết thêm rằng một số doanh nghiệp Việt Nam đã xuất khẩu rơm thành công sang thị trường Hàn Quốc.

Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng tham gia vào lĩnh vực này. Ví dụ, Lemit Foods tận dụng vỏ mít chín để sản xuất phân hữu cơ bằng phương pháp nuôi giun, góp phần giảm thiểu rác thải nông nghiệp. Họ cũng phát triển bột hạt mít để làm sản phẩm thay thế bột ca cao một cách bền vững.
Tuy nhiên, theo Cục trưởng Lê Đức Thịnh, mặc dù có rất nhiều sáng kiến tuần hoàn nông nghiệp, việc ứng dụng vẫn còn mang tính nhỏ lẻ, manh mún, chưa tạo thành một trào lưu mạnh mẽ, một thị trường lớn hoặc một chuỗi ngành hàng sản phẩm hoàn chỉnh về kinh tế tuần hoàn.
Một số đề án lớn, chẳng hạn như đề án một triệu ha lúa phát thải thấp (bao gồm hợp phần xử lý rơm rạ), đang gặp phải những hạn chế về dữ liệu. Ví dụ, các doanh nghiệp tham gia đề án còn thiếu số liệu thực tế về lượng trấu và rơm rạ thu được trên mỗi ha. Đây là một vấn đề cần được giải quyết để phát triển nông nghiệp tuần hoàn, giảm phát thải và góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam đạt phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Để đạt được điều này, mô hình tuần hoàn cần dựa trên nền tảng khoa học công nghệ, chuyển đổi số kết hợp với các giải pháp xanh, thay vì chỉ dừng lại ở mô hình “Vườn – Ao – Chuồng” truyền thống.
Ông Thịnh đề xuất cần có một chiến lược tuần hoàn riêng cho ngành nông nghiệp, thay vì gộp chung với các lĩnh vực công nghiệp, năng lượng tái tạo và vật liệu xây dựng. Đồng thời, cần chú trọng xây dựng các quy trình và tiêu chuẩn để xác nhận sản phẩm trong nông nghiệp tuần hoàn, giúp người tiêu dùng dễ dàng nhận biết và tăng giá trị hàng hóa, từ đó tạo động lực cho các doanh nghiệp tham gia.
Chủ tịch ThaiBinh Seed đề xuất thêm cơ chế chuyển giao kỹ thuật cho các doanh nghiệp và hợp tác xã trong hoạt động thu gom, xử lý và tái tạo phụ phẩm từ sản xuất lúa. Ông cũng nhấn mạnh sự cần thiết của việc ưu tiên nghiên cứu và phát triển các giống lúa ngắn ngày, có khả năng chống chịu tốt với thời tiết khắc nghiệt, giảm phát thải và tạo ra giá trị từ phụ phẩm.
Admin
Nguồn: VnExpress