Lao động “chui” ở Đài Loan: Nỗi lo thường trực

Tại Đài Loan, Bernard sống khép kín, luôn nói nhỏ và tránh mặt các cuộc gặp gỡ đồng hương. Nỗi lo sợ thường trực rằng có “kẻ phản bội” sẽ tố cáo anh với chính quyền, dẫn đến nguy cơ bị trục xuất, ám ảnh người đàn ông này.

Đến hòn đảo từ Philippines vào năm 2016 thông qua chương trình xuất khẩu lao động hợp pháp, Bernard từng làm việc trong một nhà máy lắp ráp điện tử. Tuy nhiên, từ tháng 6/2024, anh gia nhập hàng ngũ những lao động nhập cư không có giấy tờ đang ngày càng gia tăng tại Đài Loan.

Bernard cho rằng công ty môi giới phải chịu trách nhiệm cho tình cảnh hiện tại của anh. Theo lời kể của Bernard, công ty môi giới đã tìm cách giữ hộ chiếu của anh, đồng thời thuyết phục anh từ bỏ công việc và khoản trợ cấp thôi việc từ chủ lao động. Khi Bernard từ chối, mâu thuẫn giữa anh và công ty môi giới nảy sinh.

“Họ chỉ liên lạc với bạn khi đến thu tiền hoặc khi muốn lừa gạt bạn,” Bernard, người yêu cầu giấu tên thật vì lo sợ bị trả thù, chia sẻ.

Các công ty môi giới ở Đài Loan thường xuyên trích tiền từ lương của người lao động và có ảnh hưởng lớn đến điều kiện làm việc cũng như cơ hội của họ, tạo điều kiện cho hành vi lợi dụng.

Khi hợp đồng của Bernard hết hạn vào năm 2022, công ty môi giới đã đưa anh vào danh sách đen, gây khó khăn cho việc tìm kiếm việc làm mới. Vì quá tuyệt vọng trong việc kiếm tiền nuôi con gái ở Philippines, Bernard quyết định rời bỏ công ty môi giới và ở lại Đài Loan làm các công việc xây dựng tạm bợ, chấp nhận tình trạng visa quá hạn.

Những ngày tháng đó khiến Bernard cảm thấy như “chim trong lồng”. Nơi công cộng, anh thậm chí không dám nói từ “bất hợp pháp” bằng bất kỳ ngôn ngữ nào, mà chỉ ra hiệu bằng tay để diễn tả tình trạng làm việc chui của mình.

Số lượng lao động không có giấy tờ ở Đài Loan đang tăng nhanh chóng. Theo thống kê của Cơ quan Lao động Đài Loan, con số này đã tăng gấp đôi trong vòng 4 năm qua, lên đến 90.000 người vào tháng 1, chủ yếu là người nhập cư từ các quốc gia Đông Nam Á. Họ sống trong nỗi lo sợ bị trục xuất và không được tiếp cận các dịch vụ xã hội.

Chính quyền Đài Loan đã thể chế hóa hoạt động môi giới từ năm 1992 nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tuyển dụng lao động từ nước ngoài. Tuy nhiên, hệ thống này trao cho các công ty môi giới quyền lực quá lớn đối với người lao động.

Nhân viên môi giới thường có quyền quyết định hầu hết các khía cạnh trong cuộc sống của người lao động nhập cư, từ chỗ ở đến các điều khoản hợp đồng và khả năng tiếp cận các dịch vụ công.

Những người ủng hộ quyền của người nhập cư cho rằng việc các công ty môi giới nắm giữ quá nhiều quyền lực đã thúc đẩy nhiều lao động bỏ trốn khỏi nơi làm việc, chấp nhận cuộc sống bất hợp pháp.

Bảo mẫu cho em bé bú bình trong cơ sở của Harmony Home ở Đài Bắc ngày 27/4. Ảnh: Aljazeera
Hình ảnh: Chăm sóc trẻ sơ sinh tại Harmony Home, Đài Bắc. Ảnh: Internet

Hơn một phần ba số đơn khiếu nại của người di cư gửi đến cơ quan quản lý lao động của Đài Loan có liên quan đến các công ty môi giới.

Mary kiểm tra cây trồng trên núi Lệ Sơn ở Đài Chung ngày 8/4. Ảnh: Aljazeera
Hình ảnh: Mary kiểm tra cây trồng trên núi Lệ Sơn, Đài Chung. Ảnh: Internet

Linh mục Joy Tajonera, người điều hành Trung tâm Ugnayan, một nơi trú ẩn cho người di cư ở thành phố Đài Trung, cho rằng chính quyền Đài Loan chưa kiểm soát chặt chẽ hoạt động của các công ty môi giới.

“Hệ thống này cho phép các công ty môi giới gây bất lợi cho người lao động nhập cư,” ông Tajonera nói. “Trong khi đó, các nhà tuyển dụng lại phủ nhận mọi trách nhiệm.”

Các công ty môi giới thường thu phí dịch vụ hàng tháng từ 50 đến 60 USD, đồng thời thu thêm các khoản phí chuyển việc, bảo hiểm y tế, nghỉ phép và các giấy tờ cần thiết khác để người lao động có thể làm việc tại Đài Loan. Trong một số trường hợp, họ còn áp đặt giới hạn độ tuổi đối với một số ngành nghề nhất định.

Linh mục Tajonera cho biết nhiều lao động không có giấy tờ có thể kiếm được nhiều tiền hơn nếu không thông qua môi giới, nhưng khi đó họ sẽ mất tất cả các quyền lợi như hỗ trợ xã hội và bảo hiểm y tế. “Họ không muốn bỏ trốn, mà là không thể chịu đựng thêm được nữa,” ông giải thích.

Cơ quan quản lý lao động Đài Loan cho rằng số lượng người nhập cư không có giấy tờ gia tăng là do sự gián đoạn trong công tác trục xuất trong thời kỳ đại dịch Covid-19. Cơ quan này đã thực hiện nhiều biện pháp để cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động nhập cư, bao gồm tăng lương tối thiểu, kiểm tra thường xuyên các công ty tuyển dụng, ban hành quy định đình chỉ mới đối với các công ty có tỷ lệ lao động bỏ trốn cao và khuyến khích các nước xuất khẩu lao động giảm chi phí môi giới.

Bắt đầu từ năm ngoái, chính quyền Đài Loan đã tăng mức phạt tối đa đối với lao động nhập cư bị bắt vì ở lại quá hạn visa từ 330 USD lên 1.657 USD.

Lennon Ying-Da Wang, lãnh đạo Hiệp hội Phụng sự Con người, một tổ chức chuyên hỗ trợ người di cư, chỉ trích quyết định này của chính quyền.

“Thay vì giải quyết nguyên nhân khiến họ bỏ trốn, mức phạt này sẽ ngăn cản người lao động tự giác khai báo,” ông nói.

Ông Wang cho rằng việc thiếu các biện pháp bảo vệ, đặc biệt đối với những người làm việc trong ngành chăm sóc trẻ em và ngư nghiệp, là nguyên nhân chính khiến nhiều lao động nhập cư bỏ trốn khỏi nơi làm việc.

Tiêu chuẩn Lao động Đài Loan không áp dụng mức lương tối thiểu hàng tháng là 944 USD cho cả hai ngành này. Ông Wang cho biết trên thực tế, người lao động thường chỉ nhận được một nửa số tiền đó sau khi trừ các chi phí cho công ty môi giới.

“Họ chỉ muốn nhận được một mức lương xứng đáng,” ông Wang nói. “Tuy nhiên, có một quy tắc ngầm giữa một số công ty môi giới là không tuyển dụng những lao động nhập cư đã tìm kiếm sự giúp đỡ từ các cơ sở hỗ trợ, khiến họ buộc phải chấp nhận làm việc bất hợp pháp.”

Ông Wang, với tư cách là giám đốc của một cơ sở hỗ trợ do chính quyền tài trợ, không được phép tiếp nhận những lao động nhập cư đã trốn khỏi chủ lao động vì họ có thể bị trục xuất.

Li-Chuan Liuhuang, một chuyên gia về lao động tại Đại học Chung Cheng, cho biết khó có thể xóa bỏ ngay lập tức hệ thống môi giới, nhưng chính quyền Đài Loan có thể cải thiện công tác giám sát bằng cách “làm cho quy trình tuyển dụng và cơ cấu chi phí trở nên minh bạch hơn.”

Tại Lê Sơn, một khu vực miền núi thuộc Đài Trung, hàng trăm lao động nhập cư không có giấy tờ đang hái đào, lê và thu hoạch bắp cải cho các trang trại địa phương. Họ là nguồn lao động chính cho vụ thu hoạch, mặc dù không được chính quyền công nhận.

Bà Liuhuang mong muốn những người này được phép làm việc trong các trang trại và được hưởng các chế độ bảo vệ lao động phù hợp, nhưng thừa nhận rằng điều này không hề dễ dàng. “Chính quyền sẽ phải nỗ lực nhiều hơn,” bà nói.

Mary, người yêu cầu giấu tên thật, đã từ bỏ công việc chăm sóc trẻ em để làm việc bất hợp pháp trong các trang trại trên núi vì quá thất vọng khi chỉ nhận được chưa đến một nửa mức lương tối thiểu và những khiếu nại của cô bị công ty môi giới phớt lờ.

Ngồi bên cạnh một luống bắp cải, Mary, 46 tuổi, cho biết cô luôn cảm thấy sợ hãi mỗi khi gặp cảnh sát trong thành phố. Tuy nhiên, ở Lê Sơn, luật lệ dường như khác biệt, vì các chủ trang trại dường như đã đạt được một thỏa thuận ngầm với chính quyền địa phương.

“Không có chuyện ông chủ không có quan hệ với cảnh sát. Ông ấy luôn biết khi nào họ đến và bảo chúng tôi đừng ra ngoài,” cô nói.

Tuy nhiên, không có gì đảm bảo rằng họ sẽ không bị lợi dụng. Mary cho biết sau mùa thu hoạch, các chủ trang trại đôi khi giữ lại tiền lương và đe dọa trục xuất bất kỳ ai dám phàn nàn.

“Nếu tôi phàn nàn rằng ông chủ không trả lương, tôi sẽ bị báo với chính quyền. Khi đó, ai sẽ giúp tôi?” cô nghẹn ngào.

Admin


Nguồn: VnExpress

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *