Hỗ trợ nghiên cứu sinh 3,6 triệu/tháng: Vẫn còn ít?

Bộ Giáo dục và Đào tạo đang xây dựng dự thảo chính sách hỗ trợ sinh viên và học viên cao học theo học các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật then chốt và công nghệ chiến lược. Theo đó, người học sẽ được cấp sinh hoạt phí 3,63 triệu đồng mỗi tháng, tối đa 10 tháng/năm, tương tự như chính sách dành cho sinh viên sư phạm.

Ngoài ra, dự thảo cũng đề xuất cấp học bổng từ 50% đến 100% học phí cho sinh viên, học viên có kết quả học tập khá, giỏi, xuất sắc trong từng học kỳ. Mức học bổng cụ thể sẽ dựa trên trần học phí do Chính phủ quy định. Dự kiến, mức trần học phí cho các ngành này trong năm học tới là 1,7 – 1,85 triệu đồng/tháng. Các trường tự chủ tài chính hoặc đã đạt kiểm định có thể thu học phí cao hơn.

Các ngành dự kiến được hỗ trợ bao gồm các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và công nghệ trọng điểm.

Đánh giá về đề xuất này, TS. Nguyễn Trung Nhân, Trưởng phòng Đào tạo trường Đại học Công nghiệp TP.HCM, bày tỏ sự ủng hộ nhưng cho rằng mức hỗ trợ hiện tại “chưa đủ sức” để thu hút học viên sau đại học, đặc biệt là bậc tiến sĩ. Ông cho rằng nhiều cử nhân sau khi tốt nghiệp thường ưu tiên đi làm để ổn định cuộc sống, sau đó mới tính đến việc học lên cao. Trong khi đó, phần lớn nghiên cứu sinh hiện nay vẫn phải đối mặt với gánh nặng tài chính. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng đào tạo bậc sau đại học. Theo ông, một chính sách đủ mạnh sẽ khuyến khích những sinh viên tốt nghiệp xuất sắc theo đuổi con đường nghiên cứu ngay từ đầu.

TS. Nhân nhấn mạnh cần thay đổi quan niệm, xem việc làm nghiên cứu sinh là một công việc thực thụ, thay vì chỉ là đi học. Do đó, nghiên cứu sinh cần được miễn học phí, trả lương hàng tháng và hỗ trợ chi phí tham gia các hội thảo khoa học. Ông cho biết nhiều quốc gia trên thế giới còn hỗ trợ kinh phí mua vật liệu và thiết bị thí nghiệm cho nghiên cứu sinh.

PGS.TS Trần Đình Phong, Phó hiệu trưởng trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội, ý kiến về chính sách hỗ trợ cho nghiên cứu sinh, ngày 20/6. Ảnh: UTE
PGS.TS Trần Đình Phong: Ý kiến về chính sách hỗ trợ nghiên cứu sinh. Ảnh: Internet

Quan điểm này cũng được PGS.TS. Phạm Thanh Huyền (Đại học Bách khoa Hà Nội) và TS. Trịnh Thị Thúy Giang (Viện Nghiên cứu cao cấp về Toán) chia sẻ tại một tọa đàm góp ý cho dự thảo. TS. Giang đề xuất mức lương cơ bản khoảng 5-6 triệu đồng/tháng để nghiên cứu sinh có thể tập trung vào học tập, thay vì phải làm thêm để trang trải cuộc sống. Bà cũng cho rằng cần có cơ chế trả thù lao xứng đáng cho nghiên cứu sinh khi các công trình của họ mang lại kết quả.

PGS.TS. Trần Đình Phong, Phó hiệu trưởng trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội (USTH), cũng đồng tình rằng học viên cao học là lực lượng trực tiếp tham gia vào hoạt động nghiên cứu và phát triển khoa học công nghệ. Do đó, Nhà nước cần đầu tư nguồn lực để hỗ trợ họ, đảm bảo nhu cầu sống tối thiểu để họ yên tâm học tập và nghiên cứu.

Ông Phong dẫn chứng chương trình đào tạo tiến sĩ song bằng giữa USTH và các đại học Pháp, trong đó học viên được cấp 5 triệu đồng/tháng khi học tập tại Việt Nam (tương đương 300 EUR). Trong khi đó, mức hỗ trợ tối thiểu tại Pháp là 1.200 EUR/tháng. Ông Phong lo ngại rằng nếu Việt Nam chỉ tập trung cấp học bổng cho sinh viên đại học mà không quan tâm đến bậc sau đại học, hoặc mức hỗ trợ không tương xứng, có thể dẫn đến tình trạng “chuẩn bị nhân lực cho nước ngoài”.

Học viên Đại học Việt - Đức (VGU) làm việc trong phòng thí nghiệm. Ảnh: VGU
Đại học Việt – Đức (VGU): Nghiên cứu khoa học trong phòng thí nghiệm. Ảnh: Internet

Bên cạnh đó, các chuyên gia cũng đề xuất cấp học bổng cho nghiên cứu sinh theo khóa học, thay vì xét duyệt từng học kỳ như sinh viên đại học. Việc xét học bổng theo học kỳ có thể khiến học viên lựa chọn các đề tài đơn giản để dễ dàng duy trì học bổng, trong khi những đề tài này thường ít có giá trị khoa học và thực tiễn.

TS. Nguyễn Trung Nhân cũng góp ý về việc quy giá trị học bổng theo kết quả học tập ở bậc đại học. Ông cho rằng việc phân loại học bổng theo các mức khá, giỏi, xuất sắc có thể dẫn đến tình trạng giáo viên “du di” điểm số để sinh viên có thể nhận được học bổng cao hơn. TS. Trịnh Thị Thúy Giang đề xuất giới hạn tỷ lệ sinh viên được nhận học bổng ở mỗi trường để đảm bảo công bằng, do mỗi trường có tiêu chí đánh giá và cho điểm khác nhau.

Theo số liệu từ Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm 2024, các trường đại học đã tuyển khoảng 218.000 sinh viên vào các ngành STEM, tăng 18.000 so với năm trước. Tỷ lệ sinh viên theo học các lĩnh vực STEM trong những năm gần đây đạt khoảng 27-29%, thấp hơn so với nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam đặt mục tiêu tăng quy mô đào tạo khối STEM, đạt trên một triệu người học vào năm 2030, trong đó các ngành liên quan đến Công nghệ thông tin và Truyền thông, Công nghệ số chiếm khoảng 60%.

Admin


Nguồn: VnExpress

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *