Nằm ở trung tâm thành phố Kon Tum, Bảo tàng tỉnh Quảng Ngãi cơ sở 2 (trước đây là Bảo tàng tỉnh Kon Tum) không chỉ là nơi lưu giữ những giá trị vật chất và tinh thần của các dân tộc Tây Nguyên mà còn là điểm đến hấp dẫn đối với giới nghiên cứu khảo cổ.

Ông Nguyễn Văn Quang, Phó Giám đốc Bảo tàng cho biết, nơi đây đang trưng bày 594 hiện vật được khai quật từ di chỉ Lung Leng. Các hiện vật này có niên đại trải dài từ thời đại đá cũ (cách đây khoảng 20.000 – 30.000 năm) đến giai đoạn hậu kỳ đá mới và sơ kỳ kim khí (cách đây 3.000 – 4.000 năm).
Trong số đó, đáng chú ý là bộ sưu tập công cụ đá, được phân loại theo từng giai đoạn phát triển của kỹ thuật chế tác. Từ những công cụ ghè đẽo thô sơ của thời đá cũ, đến các công cụ được mài lưỡi tỉ mỉ hơn ở thời đá giữa, và cuối cùng là các công cụ được mài toàn thân như cuốc, bôn (tương tự rìu), rìu đá có vai (tay cầm) của thời đá mới.
Một nhóm hiện vật quan trọng khác là các công cụ dùng để chế tác đồ đá. Với số lượng lớn trong bộ sưu tập, chúng bao gồm bàn mài, hòn ghè, hòn nghiền, cưa đá, mũi khoan, cuội hình bánh xe, bánh đà và khuôn đúc rìu. Sự đa dạng này cho thấy dấu vết của một hoạt động sản xuất công cụ tại chỗ đã từng tồn tại ở nơi đây.

Bên cạnh đó, bảo tàng còn lưu giữ nhiều đồ gốm được sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày, như bát, đĩa, nồi, chân đèn, bát bồng, bình, vò. Cùng với đó là các loại đồ trang sức được chế tác từ đá, thạch anh, thổ hoàng và quặng.
Đặc biệt, bộ sưu tập mộ chum, mộ vò cùng với các hiện vật chôn theo được trưng bày trong các hố khai quật mô phỏng, giúp người xem hình dung rõ nét về tập tục mai táng của cư dân cổ xưa tại khu vực này.
Di chỉ khảo cổ Lung Leng được phát hiện tại một ngôi làng cùng tên, nằm bên bờ sông Pô Kô. Vào cuối những năm 1990, khu vực sông này thu hút nhiều người đến khai thác vàng. Trong quá trình tìm kiếm nhân công, các chủ khai thác đã phát hiện người dân địa phương cất giữ nhiều công cụ bằng đá có hình thù lạ mắt như búa, rìu và tiến hành thu mua chúng.
Một bước ngoặt quan trọng xảy ra vào năm 1999, khi ông Nguyễn Ngọc Kim, một tiểu thương, tìm đến Bảo tàng tỉnh Kon Tum và đề nghị bán lại hơn 300 hiện vật mà ông đã thu mua từ những người đãi vàng. Những món đồ này đã gây ngạc nhiên lớn cho các cán bộ bảo tàng. Ngay sau đó, bảo tàng đã cử cán bộ đến khu vực này để trực tiếp khảo sát và chứng kiến những dấu vết của người xưa còn sót lại trong lòng đất.

Tháng 9 cùng năm, Viện Khảo cổ học phối hợp với Sở Văn hóa Thông tin Kon Tum tổ chức đợt khai quật đầu tiên trên diện tích hơn 100 m2. Đoàn khảo cổ đã phát hiện hàng trăm di vật bằng đá và gốm.
Tuy nhiên, do toàn bộ khu di chỉ rộng tới 15.000 m2 nằm trong vùng bán ngập của lòng hồ thủy điện IaLy, việc tổ chức khai quật quy mô lớn là cần thiết trước khi thủy điện tích nước vào năm 2002, gây ngập toàn bộ khu vực.
Trước tình hình đó, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo bảo vệ khẩn cấp di chỉ Lung Leng. Đến giữa năm 2001, một cuộc khai quật quy mô lớn đã được tiến hành với sự tham gia của hơn 40 cán bộ chuyên môn và hơn 600 công nhân. Đợt khai quật này đã phát hiện và xử lý 20 di tích bếp lửa, lò nung; 120 ngôi mộ; 14.552 công cụ lao động sản xuất như rìu, bôn, cuốc, dao, bàn mài, bàn nghiền, khuôn đúc đồng.
Ngoài ra, các nhà khảo cổ còn tìm thấy nhiều đồ trang sức như vòng tay, vòng đeo tai, chuỗi hạt đeo cổ cùng hàng trăm đồ gốm và mảnh gốm.
Giáo sư Nguyễn Khắc Sử, nguyên trưởng phòng Thời đại đồ đá của Viện Khảo cổ học Việt Nam, đánh giá đây là một di chỉ cư trú đặc biệt quan trọng của cư dân tiền sử. Nơi đây không chỉ là nơi sinh sống mà còn là khu vực chế tác đồ đá, sản xuất gốm, luyện kim và là một khu mộ táng quy mô lớn. Di chỉ này thể hiện rõ sự chuyển biến qua các thời kỳ, từ hậu kỳ đá cũ (Pleistocene), hậu kỳ đá mới, sơ kỳ đồng thau cho đến thời đại sắt sớm và cả dấu tích gốm sứ thời kỳ lịch sử.
Theo Giáo sư Nguyễn Khắc Sử, những gì khai quật được tại Lung Leng không chỉ là “những di vật câm lặng” mà còn là những thông điệp sống động của tổ tiên, giúp phục dựng bức tranh văn hóa tiền sử của vùng Tây Nguyên.
Ông cũng cho rằng cư dân tiền sử Lung Leng đã có mối giao lưu rộng mở với các nhóm cư dân cổ khác ở Việt Nam và Đông Nam Á, đồng thời vẫn bảo lưu những nét đặc trưng văn hóa riêng.

Giáo sư Nguyễn Khắc Sử nhấn mạnh: “Phải nhận rằng đây là một vùng đất đầy năng động, sáng tạo và có mối giao lưu rộng mở. Hiểu sâu kỹ về quá khứ Tây Nguyên sẽ cho chúng ta có cái nhìn thực tế trong chiến lược phát triển kinh tế văn hóa xã hội Tây Nguyên – một vùng đất đầy tiềm năng của Tổ quốc”.
Ông Nguyễn Văn Quang cho biết thêm, những hiện vật từ di chỉ Lung Leng được trưng bày tại bảo tàng là nguồn sử liệu vật chất phong phú và quan trọng, góp phần vào việc nghiên cứu lịch sử, văn hóa tiền sử ở Kon Tum và khu vực lân cận. Trong những năm qua, cán bộ bảo tàng thường xuyên giới thiệu về di chỉ Lung Leng cho các em học sinh đến tìm hiểu lịch sử địa phương.
Nhiều du khách cũng bày tỏ sự bất ngờ khi được chiêm ngưỡng những hiện vật từ Lung Leng. Anh Quang Minh, một du khách đến từ Quảng Ngãi, chia sẻ: “Trái ngược với định kiến rằng Tây Nguyên là vùng đất khép kín, biệt lập, khi tham quan bảo tàng, tôi nhận ra vùng đất này đã sớm có sự phát triển rực rỡ, để lại những hiện vật giá trị, chứng minh cho trình độ lao động sản xuất ở nơi đây”.
Admin
Nguồn: VnExpress