Tại Diễn đàn Dầu khí và Năng lượng thường niên 2025, các chuyên gia đã nhấn mạnh về nhu cầu cấp thiết trong việc tăng cường đầu tư cho quá trình chuyển dịch năng lượng của Việt Nam. Tuy nhiên, hệ thống tài chính hiện tại đang đối mặt với nhiều thách thức lớn để đáp ứng nhu cầu này.
PGS.TS Ngô Trí Long, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu thị trường giá cả (Bộ Tài chính), đã đề xuất một giải pháp quan trọng: thành lập Ngân hàng Năng lượng quốc gia (NEB). Theo ông Long, NEB sẽ là một định chế tài chính chuyên trách, được xây dựng trên sự hợp tác giữa Tập đoàn Công nghiệp – Năng lượng quốc gia Việt Nam (PVN) và các ngân hàng lớn như BIDV, Agribank, Vietcombank, cùng sự bảo trợ từ Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước.
NEB sẽ tập trung vào việc cung cấp tín dụng trung và dài hạn (15-25 năm) cho các dự án năng lượng tái tạo, lưu trữ năng lượng, hydrogen xanh và điện gió ngoài khơi. Để huy động vốn, ngân hàng này sẽ sử dụng các công cụ tài chính xanh và đổi mới, bao gồm phát hành trái phiếu xanh và huy động vốn từ thị trường quốc tế với lãi suất ưu đãi. Đồng thời, Nhà nước sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc chia sẻ rủi ro thông qua quỹ bảo lãnh rủi ro đầu tư năng lượng, còn PVN sẽ đảm nhận việc bảo lãnh kỹ thuật – công nghệ, hỗ trợ thẩm định các dự án năng lượng mới và chuyển giao công nghệ.
Ông Long cho biết mô hình ngân hàng năng lượng đã được triển khai thành công ở nhiều quốc gia trên thế giới. Ông dẫn chứng KfW (Đức), một ngân hàng phát triển nhà nước, đã tài trợ hơn 80 tỷ EUR cho các dự án năng lượng sạch tại châu Âu. Green Bank (Anh) đã huy động hơn 15 tỷ USD từ khu vực tư nhân chỉ trong 5 năm đầu. IFF, mô hình hợp tác giữa Chính phủ Indonesia và WB/ADB, chuyên tài trợ các dự án hạ tầng năng lượng dài hạn. “Mô hình Ngân hàng Năng lượng Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi các thể chế này nhưng cần được bản địa hóa, kết hợp giữa vai trò điều phối của Nhà nước, năng lực kỹ thuật của PVN và nguồn lực thị trường”, ông Long nhấn mạnh.
Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB) cho thấy Việt Nam cần đầu tư hơn 368 tỷ USD, tương đương 6,8% GDP mỗi năm, để đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050, trong đó riêng lĩnh vực năng lượng chiếm hơn 135 tỷ USD. Tuy nhiên, số liệu từ Bộ Tài chính cho thấy đầu tư công vào lĩnh vực năng lượng giai đoạn 2016-2023 chỉ chiếm khoảng 15-18% tổng vốn đầu tư công toàn ngành, tương đương 28-32 tỷ USD. Điều này cho thấy sự thiếu hụt đáng kể về nguồn lực đầu tư vào lĩnh vực năng lượng.
Các ngân hàng hiện tại gặp khó khăn trong việc đáp ứng yêu cầu vốn của các dự án năng lượng tái tạo mới do thiếu kiến thức chuyên sâu, hạn chế về kỳ hạn cho vay (thường dưới 10 năm) và thiếu cơ chế bảo lãnh rủi ro công nghệ và ngoại tệ. Ông Nguyễn Trung Khương từ Ban Chiến lược PVN cho biết các lĩnh vực mới như điện gió ngoài khơi, sản xuất hydrogen, amonia xanh và phát triển điện hạt nhân đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn và thời gian thu hồi vốn kéo dài. “Việc huy động, sắp xếp và tối ưu hóa các nguồn vốn này trong bối cảnh cạnh tranh và các quy định tài chính hiện hành là một thách thức vô cùng lớn”, ông nói.

Để giải quyết vấn đề này, ông Nguyễn Đức Hiển, Phó trưởng Ban Chính sách, chiến lược Trung ương, đề xuất Việt Nam cần có cơ chế thu hút đầu tư tư nhân vào các dự án chuyển dịch năng lượng, bao gồm cả cơ chế đối tác công – tư. Bên cạnh đó, cần cải cách thị trường điện, cơ chế mua bán điện và giá điện, cũng như giải quyết các vấn đề tồn đọng từ bán buôn đến bán lẻ điện.
Việc thành lập Ngân hàng Năng lượng Quốc gia và thực hiện các giải pháp đồng bộ khác sẽ tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam huy động đủ nguồn lực tài chính, thúc đẩy quá trình chuyển dịch năng lượng và đạt được các mục tiêu phát thải đã đề ra.
Admin
Nguồn: VnExpress