Ẩn mình trên núi Athos, miền bắc Hy Lạp, tu viện Simonos Petra, hay còn gọi là “Đá của Simon”, đã trở thành một biểu tượng của đức tin và sự kiên cường từ thế kỷ 13. Nơi đây là mái nhà chung của một cộng đồng Chính thống giáo đa dạng, chào đón các tu sĩ từ khắp nơi trên thế giới, bao gồm cả những người đã chuyển đổi đức tin từ các quốc gia mà Chính thống giáo không phải là tôn giáo chủ đạo.
Tu viện Simonos Petra là một trong 20 cộng đồng tu viện toàn nam giới được hưởng quyền tự trị trên bán đảo Núi Athos, còn được gọi là “Núi Thánh”. Truyền thống hơn 1.000 năm cấm phụ nữ đặt chân lên bán đảo này, nơi được coi là lãnh địa của Đức Mẹ đồng trinh Maria. Đàn ông không theo Chính thống giáo có thể đến thăm Núi Athos trong vài ngày, nhưng chỉ những người theo Chính thống giáo mới có thể trở thành tu sĩ.
Viện phụ Elesios, người đứng đầu tu viện Simonos Petra, nhấn mạnh sự đa dạng quốc tịch của tu viện, giải thích rằng “Về mặt tinh thần, không có biên giới, bởi Núi Thánh có bản chất đại đồng”. Ông khẳng định tu viện luôn mở rộng cửa chào đón mọi người bằng tình yêu thương.
Cha Makarios, một tu sĩ người Pháp, là thủ thư của tu viện và là một trong những tu sĩ không mang quốc tịch Hy Lạp có thời gian tu hành lâu nhất tại đây. Hành trình tìm kiếm đức tin của ông bắt đầu vào tháng 5 năm 1968, khi ông còn là một thanh niên chứng kiến những biến động xã hội từ phong trào biểu tình của sinh viên ở Paris. Cuộc tìm kiếm này đã đưa ông đến Núi Athos vào năm 1975. “Tôi tìm thấy những người hiểu và chấp nhận tôi. Họ không phán xét tôi”, ông chia sẻ, đồng thời cho biết đã cải đạo từ Công giáo La Mã sang Chính thống giáo và đã sống ở Simonos Petra trong 46 năm.
Giáo hội Chính thống giáo Đông phương là hệ phái Kitô giáo lớn thứ hai trên thế giới, sau Giáo hội Công giáo La Mã. Giáo hội này đóng vai trò quan trọng trong lịch sử và văn hóa của Đông Âu, Hy Lạp, Nga, Kavkaz và Cận Đông. Trong thiên niên kỷ đầu tiên của Kitô giáo, Chính thống giáo Đông phương và Công giáo Tây phương là một giáo hội thống nhất. Tuy nhiên, vào thế kỷ 11, những khác biệt giữa Đông phương và Tây phương đã dẫn đến cuộc Đại ly giáo Đông – Tây năm 1054, từ đó hình thành nên Giáo hội Chính thống giáo Đông phương và Giáo hội Công giáo La Mã.
Cha Makarios giới thiệu một tấm bản đồ năm 1744 mô tả tu viện Simonos Petra. Tu viện được thành lập vào thế kỷ 13 bởi Simon, một ẩn sĩ sống trong hang động trên Núi Athos. Tương truyền, trong một giấc mơ, Đức Mẹ đã dặn ông xây dựng một tu viện trên tảng đá, hứa sẽ bảo vệ và cùng ông chăm sóc tu viện. Ông qua đời năm 1287 và thánh tích của ông được cho là tiết ra một loại nhựa thơm, dẫn đến việc ông được phong chân phước là Thánh Simon Nhựa thơm.
Tu viện cao 7 tầng, được xem là một kỳ quan kiến trúc Byzantine táo bạo. Công trình này đã trở thành biểu tượng của sự kiên cường trong suốt chiều dài lịch sử, khi đã phục hồi sau ba trận hỏa hoạn, lần gần nhất là vào cuối những năm 1800.
Phần lớn trong số 65 tu sĩ đang tu hành tại Simonos Petra đến từ các quốc gia châu Âu nơi Chính thống giáo là tôn giáo chính, như Romania, Serbia, Nga, Moldova, Cyprus và Hy Lạp. Bên cạnh đó, còn có các tu sĩ đến từ Trung Quốc, Đức, Hungary, Mỹ, Australia, Pháp, Lebanon và Syria.
Cha Isaiah, 50 tuổi, người gốc Hoa, lớn lên ở Thụy Sĩ và đến tu viện từ năm 2006, chia sẻ: “Lúc ở Thụy Sĩ, tôi đã cố gắng tìm hiểu mình đang làm gì, mình sẽ đi đâu, ý nghĩa cuộc sống là gì”. Ông tìm thấy tình huynh đệ giữa các tu sĩ đến từ 14 quốc gia và quyết định ở lại. “Chúng tôi tập hợp lại với nhau bằng một số nguyên tắc, đó là tình yêu thương đối với người bên cạnh và tình yêu dành cho Chúa”, Cha Isaiah nói. Ông tin rằng, trong những kết nối con người và tâm linh mà ông trải nghiệm ở Simonos Petra, “tôi đã tìm thấy một câu trả lời sâu sắc cho tất cả những gì tôi từng tìm kiếm thời trẻ”.
Cha Serafeim, người Lebanon – Syria, sống trong tu viện từ năm 2010, cho biết Viện phụ Eliseos và người tiền nhiệm Elder Emilianos luôn chào đón người nước ngoài. “Bạn không cảm thấy mình là người lạ, bạn cảm thấy ngay từ đầu rằng mình là một thành viên bình đẳng trong tình huynh đệ”, ông nói. Ông từng đến Hy Lạp học thần học ở thành phố Thessaloniki, và tin rằng “Tinh thần cởi mở đó đã thu hút nhiều tâm hồn đang tìm kiếm ý nghĩa chân thực, sâu sắc của cuộc đời”.
Cuộc sống trong tu viện và trên khắp Núi Athos hầu như không thay đổi trong hơn 1.000 năm kể từ khi Chính thống giáo có mặt ở đây. Một ngày mới bắt đầu trước khi mặt trời mọc bằng các buổi cầu nguyện. Sau đó, các tu sĩ tham gia vào nhiều công việc khác nhau như trồng rau, làm mộc, nấu rượu, nấu ăn, sáng tác nghệ thuật, sắp xếp giấy tờ và thực hiện các công việc của giáo hội. Nằm giữa sườn đồi và được bao quanh bởi rừng rậm, các tu sĩ tận dụng đất đai để canh tác, trồng các loại thảo mộc, trái cây và rau quả, cung cấp cho nhà bếp của tu viện. Họ cũng lắp đặt các tấm quang năng để sử dụng nguồn điện bền vững, thể hiện sự hòa hợp giữa truyền thống và hiện đại.
Admin
Nguồn: VnExpress