Ở tuổi 52, bà Marianne Ok Nielsen chưa từng nghĩ đến việc lập gia đình hay sinh con, bởi bà luôn cảm thấy “mình không xứng đáng với một cuộc sống như vậy”.
Lớn lên ở Đan Mạch, bà Nielsen tâm sự: “Tôi từng nghĩ mình bị bỏ rơi như một món đồ vô giá trị, không ai cần đến… Nếu ngay cả mẹ ruột cũng không muốn mình, thì ai sẽ yêu thương mình đây?”.
Mẹ nuôi của bà Nielsen, người đã qua đời năm ngoái, từng an ủi rằng mẹ ruột có lẽ đã “yêu thương con rất nhiều nên mới phải từ bỏ con”, vì không đủ khả năng nuôi dưỡng.
Câu chuyện này, thoạt nghe có vẻ an ủi, nhưng lại hé lộ một đường dây kinh doanh “xuất khẩu hàng loạt” trẻ sơ sinh đầy ám ảnh, với nhiều trường hợp bị làm giả tên tuổi và ngày sinh, rồi đưa đến các bậc cha mẹ ở ít nhất 11 quốc gia khác nhau.
Ủy ban Sự thật và Hòa giải Hàn Quốc đã công bố thông tin chấn động này trong một báo cáo gần đây. Đây là lần đầu tiên chính phủ Hàn Quốc chính thức thừa nhận quy mô của hoạt động này.
Theo đó, có hơn 141.000 trẻ em Hàn Quốc đã được gửi ra nước ngoài làm con nuôi từ những năm 1950 đến 1990, chủ yếu là đến Mỹ và các nước châu Âu. Trong bối cảnh xã hội Hàn Quốc thời bấy giờ còn kỳ thị những bà mẹ đơn thân, nhiều phụ nữ đã phải chịu áp lực từ bỏ con ngay sau khi sinh. Nhiều người khác lại phải sống trong đau khổ suốt nhiều năm vì bị tước đoạt mất con.
Bà Han Tae-soon, 73 tuổi, vẫn còn nhớ như in tiếng cười của cô con gái 4 tuổi Kyung-ha khi bé chơi đùa cùng bạn bè trước nhà ở thành phố Cheongju, cách Seoul khoảng 110 km về phía nam, vào năm 1975.
Bà Han kể lại: “Hôm đó, tôi đi chợ và để Kyung-ha chơi với mấy bạn nhỏ. Khi tôi quay về thì con bé đã biến mất”.
Khi ấy mới 22 tuổi, bà Han cùng gia đình đã lùng sục khắp các cánh đồng dưa hấu gần nhà, lo sợ con gái bị lạc hoặc đuối nước.
Năm 1981, bà Han mở một tiệm làm tóc ở Anyang, phía tây nam Seoul, và treo bức ảnh cũ của Kyung-ha lên tấm gương để khách hàng có thể nhìn thấy.
Bà Han đã tìm đến các đài phát thanh, phát tờ rơi và thậm chí xuất hiện trên một chương trình truyền hình vào năm 1990. Nhờ đó, bà nhận được nhiều manh mối, nhưng cũng vướng phải một cú lừa đau đớn. Một cô gái 20 tuổi đã tìm đến bà và tự nhận mình là Kyung-ha.
“Tôi hỏi ‘bố con làm nghề gì?’, cô gái trả lời ‘ông ấy lái taxi’. Vậy là tôi đưa con bé về nhà”, bà Han nhớ lại.
Tuy nhiên, chồng bà lại không tin. Ông nói với bà: “Đó không phải là Kyung-ha”. Dù vậy, trong cơn tuyệt vọng, bà Han vẫn chào đón người lạ mặt vào gia đình.
Hai năm sau, bà Han phát hiện ra sự thật khi cô gái chuẩn bị kết hôn. Cô thừa nhận đã nói dối vì từng bị mẹ ruột bỏ rơi và khao khát có một gia đình. Cô gái sau đó thu dọn đồ đạc rời khỏi thị trấn, còn bà Han vẫn đau đáu đi tìm con gái ruột của mình.
Sau hàng chục năm, mức độ tàn khốc của chương trình đưa trẻ em Hàn Quốc ra nước ngoài làm con nuôi giờ đây mới dần được hé lộ. Một số người con thất lạc đã tìm được cha mẹ ruột, nhưng vẫn chưa thể thực sự đoàn tụ do những khó khăn trong giao tiếp và sự khác biệt về văn hóa, lối sống sau hàng chục năm xa cách.
Lớn lên ở thị trấn nhỏ Gedved, bà Nielsen luôn khao khát trở thành “người Đan Mạch hơn cả người Đan Mạch”. Bà từng nghĩ rằng nếu cha mẹ ruột không cần mình, thì mình cũng không muốn dính dáng gì đến họ.
Mãi đến khi trưởng thành, bà Nielsen mới bắt đầu đặt câu hỏi về nguồn gốc của mình. Lúc đó, con trai 4 tuổi của người đàn ông bà đang hẹn hò đã hỏi mẹ ruột của bà ở đâu.
Khi bà giải thích rằng mình không thể tìm được mẹ ruột vì không còn hồ sơ lưu trữ, cậu bé đã nói: “Nếu ai làm thế với con, con sẽ khóc suốt cả ngày mất!”. Chính khoảnh khắc đó đã khiến bà Nielsen nhận ra rằng mình đã kìm nén cảm xúc suốt cả cuộc đời.
Năm 2016, bà Nielsen đã làm xét nghiệm ADN thông qua 325Kamra, một tổ chức phi lợi nhuận có trụ sở tại Mỹ, chuyên giúp đỡ những người Hàn Quốc được nhận làm con nuôi đoàn tụ với gia đình.
Suốt nhiều năm, cuộc tìm kiếm của bà Nielsen không mang lại kết quả. Nhưng vào tháng 5 năm ngoái, bà nhận được một tin nhắn: “Đã tìm thấy khả năng trùng khớp”. Anh trai của bà ở Hàn Quốc đã đăng ký ADN với cảnh sát, hy vọng tìm được em gái mất tích.
Bà Nielsen xúc động nói: “Suốt 51 năm, tôi luôn nghĩ mình bị bỏ rơi ngoài đường, là một đứa trẻ mồ côi. Tôi chưa bao giờ tin rằng mình có gia đình và họ đã tìm kiếm tôi suốt bấy lâu nay”.
Giống như bà Nielsen, bà Han cũng đã xét nghiệm ADN qua 325Kamra và tìm thấy thông tin trùng khớp. Con gái mất tích của bà, Kyung-ha, hiện đang sống ở Mỹ với cái tên Laurie Bender do cha mẹ nuôi đặt.
Con của Bender đã gửi ADN cho 325Kamra gần một thập kỷ trước. Bà Han cho biết, trong suốt những năm tìm con, bà chưa bao giờ nghĩ đến việc tìm kiếm bên ngoài Hàn Quốc.
“Tôi nghĩ con bé có thể được một cặp vợ chồng hiếm muộn ở Hàn Quốc nhận nuôi, hoặc nếu còn sống, con bé đang ở đâu đó trong nước. Tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc con bé được cho người nước ngoài nhận nuôi”, bà khẳng định.
Vào năm 2019, Bender từng chia sẻ với kênh truyền hình MBC của Hàn Quốc rằng vào ngày 9/5/1975, cô đã “đi theo một người phụ nữ lên tàu” đến ga cuối cùng. “Tôi đến đồn cảnh sát ngay tại đó, họ đưa tôi lên một chiếc xe Jeep và chở đến trại mồ côi”, cô kể lại.
Bà Han tin rằng người phụ nữ lạ mặt đã dụ dỗ Kyung-ha đến một ga xe lửa ở Jecheon, cách nhà họ khoảng 64 km, rồi bỏ rơi cô bé. “Đến tận bây giờ, tôi vẫn không biết người phụ nữ đó là ai”, bà nói.
Bà cho biết cảnh sát đã đưa Kyung-ha đến Trại Trẻ sơ sinh Jecheon, nơi khi đó do Jane White, một nhà truyền giáo người Mỹ, điều hành. Hồ sơ cho thấy vào tháng 2/1976, 9 tháng sau khi mất tích, Kyung-ha đã được đưa đến Mỹ.
Tài liệu do Bộ Ngoại giao Hàn Quốc cấp cho phép Kyung-ha ra nước ngoài để làm thủ tục nhận con nuôi đã thay họ của cô bé bằng họ của White và thay đổi địa chỉ liên hệ thành Holt Children’s Services.
Trại Trẻ sơ sinh Jecheon cho biết bà White, hiện 89 tuổi, không thể di chuyển hoặc giao tiếp sau khi mắc một “căn bệnh đột ngột” vào tháng 4/2020, và từ chối bình luận về thông tin do “không ai khác có thể xác nhận các chi tiết”.
Holt Children’s Services là cơ sở tại Hàn Quốc của Holt International, tổ chức được vợ chồng người Mỹ Harry và Bertha Holt thành lập vào những năm 1950. Vốn là những tín đồ Thiên Chúa giáo, họ đã nhận nuôi 8 trẻ em Hàn Quốc sau Chiến tranh Triều Tiên và bắt đầu nhân rộng kinh nghiệm này cho các gia đình khác.
Thời điểm đó, Hàn Quốc đang phục hồi sau chiến tranh. Hồ sơ cho thấy số vụ nhận con nuôi quốc tế tăng mạnh khi chính phủ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh chóng trong những năm 1970 và 1980.

Năm 1977, Holt International tách khỏi Holt Children’s Services. Tháng 10 năm ngoái, Holt International cho biết họ là một trong nhiều tổ chức tư nhân tạo điều kiện cho “các vụ nhận con nuôi từ Hàn Quốc trong những năm 1980”.
Trong một tuyên bố, Holt International cho rằng “những báo cáo về hành vi nhận con nuôi phi đạo đức hoặc bất hợp pháp” là “đáng báo động”, nhưng cũng lưu ý rằng nhiều thông tin đã bỏ qua áp lực xã hội buộc các bà mẹ đơn thân phải từ bỏ con.
“Chúng tôi vẫn cam kết hỗ trợ những người được nhận làm con nuôi từ Hàn Quốc và cha mẹ nuôi của họ giải đáp các thắc mắc”, tổ chức này cho biết.
Ủy ban Sự thật và Hòa giải phát hiện ra rằng Đạo luật Nhận con nuôi Đặc biệt cho Trẻ mồ côi của Hàn Quốc, được ban hành vào năm 1961, đã đẩy nhanh quá trình nhận con nuôi quốc tế sau Chiến tranh Triều Tiên. Không lâu sau, đạo luật này còn bao gồm cả trẻ sơ sinh của các bà mẹ đơn thân, trẻ bị bỏ rơi và trẻ em được coi là cần được “bảo vệ”.
Báo cáo của Ủy ban cho biết mọi quy trình liên quan đến việc nhận con nuôi đều được giao phó cho các cơ quan tư nhân. Những đơn vị này đã làm mất, làm giả hoặc ngụy tạo danh tính và thông tin gia đình của nhiều đứa trẻ.
Theo báo cáo, nhiều trẻ em đã phải chịu đựng những chuyến bay dài mà không được chăm sóc chu đáo. Báo cáo cũng kèm theo một bức ảnh đen trắng chụp những đứa trẻ sơ sinh được thắt chặt vào ghế máy bay trên một chuyến bay từ Hàn Quốc đến Đan Mạch vào năm 1984.
Bà Yooree Kim, hiện 52 tuổi, nhớ lại mình từng ở trên một chuyến bay tương tự đến Pháp. Bà đã cố gắng an ủi những em bé đang khóc bên cạnh bằng cách vuốt ve mặt và để tóc chạm vào da chúng.
Kim, khi đó 11 tuổi, lớn hơn rất nhiều so với những đứa trẻ xung quanh. Bà và em trai từng có một tuổi thơ hạnh phúc ở Hàn Quốc, nhưng sau khi cha mẹ ly hôn, họ chuyển đến sống với ông bà.
Khi bà của họ bị chẩn đoán mắc bệnh lao, hai đứa trẻ trở về với mẹ. Nhưng vì khó khăn tài chính, người mẹ đã gửi hai đứa trẻ vào một cơ sở chăm sóc trẻ em tư nhân vào tháng 5/1983.
Việc này chỉ mang tính chất tạm thời, nhưng đến Giáng sinh năm đó, Kim và em trai bị gửi sang Pháp.
Kim cho biết bà được bảo rằng cha mẹ đã “bỏ rơi” họ. Bà cũng nói rằng mình bị cha nuôi ở Pháp lạm dụng, song ông đã phủ nhận điều này cho đến khi qua đời vào năm 2022.

10 năm sau khi được nhận nuôi, Kim trở lại Seoul vào năm 1994 và phát hiện ra sự thật.
“Lần đầu tiên tôi gặp lại mẹ, bà đã khóc và nói rằng bà không liên quan gì đến việc tôi bị đưa ra nước ngoài làm con nuôi. Bố tôi quỳ xuống xin lỗi. Ông cũng nói rằng ông không biết gì về chuyện đó”, Kim kể.
Mẹ của Kim nói rằng bà từng làm việc tại một trại trẻ mồ côi và tin tưởng cơ sở này sẽ chăm sóc tốt cho các con của mình. Nhưng khi bà quay lại đón các con, chúng đã biến mất.
Đối với Kim, việc tìm lại gia đình là chưa đủ. Bà muốn tất cả những người liên quan phải công khai mọi thứ trong cái mà bà gọi là một quy trình đầy sai sót và gây tổn thương sâu sắc.
Ủy ban Sự thật và Hòa giải đã đề xuất chính phủ Hàn Quốc và các cơ quan môi giới nhận con nuôi tư nhân xin lỗi về việc vi phạm quyền trẻ em.
Quá trình nhận con nuôi ở Hàn Quốc hiện được giám sát chặt chẽ hơn. Theo một đạo luật được thông qua vào năm 2023, các cơ quan tư nhân phải chuyển tất cả hồ sơ nhận con nuôi quốc tế còn lại cho Trung tâm Quốc gia về Quyền trẻ em trước cuối tháng này.
Từ tháng 10/2025, Hàn Quốc sẽ phải tuân thủ Công ước Hague về nhận con nuôi quốc tế. Công ước này đặt ra các tiêu chuẩn để bảo vệ trẻ em khỏi nạn bắt cóc, buôn người hoặc mua bán người trái phép.
Tuy nhiên, những gia đình bị chia cắt cho rằng những biện pháp này vẫn chưa đủ để xoa dịu nỗi đau dai dẳng trong lòng họ.
“Tôi muốn nhận được lời xin lỗi và bồi thường”, Kim khẳng định.

Sau nhiều cuộc điện thoại với bà Han, Bender đã bay đến Seoul vào năm 2019. Hai mẹ con đã đoàn tụ tại sân bay. Bà Han vẫn luôn giữ trong tâm trí hình ảnh cô con gái 4 tuổi bám váy mẹ. Nhưng giờ đây, bà phải đối diện với một người con gái đã thay đổi hoàn toàn sau 44 năm xa cách.
“Điều đầu tiên tôi hỏi con bé là ‘tại sao con lại sang Mỹ?’. Tôi chưa bao giờ tưởng tượng con có thể ở đó”, bà kể.
Vuốt nhẹ mái tóc của Bender, bà Han chắc chắn đây là con gái mình bởi “kết cấu tóc không thể thay đổi”. Bender vẫn giữ đôi giày mình mang vào ngày mất tích, và chính nó đã giúp xác nhận thêm rằng Bender chính là Kyung-ha.
“Con bé đã giữ đôi giày suốt bấy lâu nay”, bà Han nói. “Bạn có thể tưởng tượng con bé đã mong tìm được bố mẹ đến mức nào không?”.
Bà Han cho biết bản thân rất tức giận vì quãng thời gian đã mất và rào cản ngôn ngữ đang tồn tại giữa bà và con gái.
“Nếu ngày đó không bị chia cắt, giờ đây tôi có thể nói với con tất cả những gì tôi muốn”, bà cho hay. “Nhưng hiện tại, ngay cả khi tôi cố gắng nói chuyện với con, vẫn có quá nhiều hiểu lầm. Sau khi đoàn tụ, chúng tôi vẫn thấy như người xa lạ vì không thể thực sự giao tiếp”.
Bà Han vẫn sống ở Anyang. Căn hộ ba phòng ngủ sạch sẽ của bà, nằm trong một khu chung cư yên tĩnh, chứa đầy những bức ảnh của em trai và em gái Bender. Ảnh của Bender cũng được đặt ở đó, nhưng có một khoảng trống lớn giữa ảnh cô lúc còn bé và khi đã trưởng thành.
Tháng 10 năm ngoái, bà Han là một trong những người mẹ đầu tiên ở Hàn Quốc kiện chính phủ, trại trẻ mồ côi và Holt Children’s Services, cơ quan dàn xếp nhận con nuôi lớn nhất đất nước, vì những thiệt hại mà bà phải chịu. Vụ án của bà dự kiến sẽ được đưa ra xét xử trở lại vào tháng 9 năm nay.
Bà Nielsen cũng gặp khó khăn trong việc giao tiếp với người mẹ mà cô từng tin là đã bỏ rơi mình. Mẹ của bà giờ đã 93 tuổi và mắc chứng mất trí nhớ, không còn ký ức nào về đứa con gái thất lạc.
Theo thời gian, bà Nielsen đã dần có thêm thông tin về những gì xảy ra trong quá khứ.

Tháng 8/1973, mẹ của bà mắc một căn bệnh truyền nhiễm. Lo cho sự an toàn của đứa con mới sinh, bà tạm thời gửi con cho dịch vụ xã hội. Tháng 12/1973, đứa trẻ được gửi đến Đan Mạch. Vài tuần sau, người mẹ hoảng loạn trình báo cảnh sát.
Giống như Bender, tên và ngày sinh của bà Nielsen đã bị thay đổi trên giấy chứng nhận xuất cảnh do chính phủ cấp. Tài liệu này ghi nơi liên hệ của đứa trẻ là địa chỉ của Holt Children’s Services.
Bà Nielsen đã quay về Daejeon để ở gần mẹ hơn và để mẹ biết rằng bà không giận dữ hay đổ lỗi cho quá khứ. Nhưng bà Nielsen cảm thấy thất vọng vì rào cản ngôn ngữ giữa hai người, khiến họ không thể thực sự hiểu nhau.
“Ngôn ngữ là cánh cửa dẫn vào văn hóa. Tình cảm thân mật khi trò chuyện với mẹ đã hoàn toàn biến mất. Đó là một mất mát rất lớn đối với tôi”, bà nói.
Bà Nielsen đang học tiếng Hàn. Nhờ vậy, bà có thể tìm được vài lời an ủi dành cho người mẹ già yếu của mình. Nhưng đôi khi, lời nói không thực sự cần thiết.
Bà Nielsen vẫn nhớ đêm đầu tiên bà ngủ bên cạnh mẹ ruột.
“Tôi không thể ngủ nhiều. Tôi chỉ nhìn mẹ… Tôi có thể nhìn bà và cảm nhận rằng ‘đây là mẹ mình. Không còn nghi ngờ gì nữa'”, bà nói.
Những câu chuyện như của bà Nielsen và bà Han là lời nhắc nhở sâu sắc về những vết sẹo mà quá khứ để lại. Dù thời gian có trôi qua, hành trình tìm lại bản thân và hàn gắn những vết thương lòng vẫn còn tiếp diễn.
Admin
Nguồn: VnExpress