Trung tá, ThS.BS Hoàng Tiến Trọng Nghĩa, Chủ nhiệm Khoa Nội Thần kinh, Bệnh viện Quân y 175, cảnh báo rằng đột quỵ tái phát là tình trạng bệnh nhân trải qua một cơn đột quỵ mới sau khi đã hồi phục hoặc ổn định từ lần đột quỵ trước đó. Cơn đột quỵ tái phát này có thể biểu hiện các triệu chứng tương tự hoặc khác biệt so với lần đầu, tùy thuộc vào khu vực não bộ bị ảnh hưởng.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng tỷ lệ tử vong sau đột quỵ tái phát cao hơn đáng kể so với lần đầu. Đơn cử, nguy cơ tử vong sau một năm ở bệnh nhân tái phát đột quỵ là khoảng 25%, trong khi con số này ở lần đột quỵ đầu tiên là 17%. Mức độ tàn tật sau đột quỵ tái phát cũng nghiêm trọng hơn, khiến phần lớn bệnh nhân mất khả năng tự chăm sóc bản thân. Bác sĩ Nghĩa cũng lưu ý rằng, việc đột quỵ tái phát nhiều lần dù đã kiểm soát chặt chẽ các yếu tố nguy cơ có thể là dấu hiệu của một bệnh lý tiềm ẩn khác như viêm mạch, bệnh lý huyết học hoặc các căn nguyên di truyền. Dù hiếm gặp, những bệnh lý này có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng.
Trên phạm vi toàn cầu, tỷ lệ tái phát đột quỵ ước tính khoảng 10-12% trong năm đầu tiên và tăng lên 20-26% trong vòng 5 năm sau cơn đột quỵ đầu tiên. Tại Việt Nam, mặc dù chưa có số liệu thống kê cụ thể về tỷ lệ tái phát đột quỵ, các nghiên cứu đa quốc gia và khu vực cho thấy tỷ lệ này tương đồng với thế giới, khoảng 10% trong năm đầu.
PGS.TS.BS Nguyễn Huy Thắng, Phó Chủ tịch Hội Đột quỵ Việt Nam, cho biết tỷ lệ tái phát đột quỵ ở Việt Nam có xu hướng cao hơn ở nhóm người trẻ tuổi dưới 45 do việc tuân thủ điều trị và kiểm soát các yếu tố nguy cơ còn hạn chế. Khoảng 15-20% trường hợp tái phát xảy ra trong 3 năm đầu. Đặc biệt, nguy cơ tái phát cao nhất trong 3 tháng đầu sau đột quỵ (khoảng 10-20% ca) do tổn thương mạch máu chưa ổn định hoàn toàn.
Bác sĩ Thắng nhấn mạnh: “Nguy cơ tái phát đột quỵ có thể giảm đáng kể nếu bệnh nhân tuân thủ điều trị, kiểm soát các yếu tố nguy cơ và thay đổi lối sống một cách tích cực.”
Lãnh đạo Hội Đột quỵ Việt Nam nhận định rằng sự thiếu ý thức hoặc bỏ điều trị là nguyên nhân chính khiến tỷ lệ tái phát đột quỵ ở Việt Nam còn cao. Do đó, việc tầm soát định kỳ và nhận thức về các dấu hiệu cảnh báo đóng vai trò then chốt trong việc bảo vệ sức khỏe sau đột quỵ.

Bác sĩ Nghĩa phân tích rằng, các nguyên nhân và yếu tố nguy cơ gây đột quỵ có thể được chia thành hai nhóm. Nhóm không thể kiểm soát bao gồm tuổi cao, tiền sử đột quỵ hoặc các bệnh lý bẩm sinh, di truyền về tim mạch, mạch máu. Ngoài ra, giới tính nam và tiền sử gia đình có người bị đột quỵ cũng làm tăng nhẹ nguy cơ.
Nhóm các yếu tố nguy cơ có thể kiểm soát được bao gồm tăng huyết áp (yếu tố phổ biến nhất), đái tháo đường, rối loạn mỡ máu, bệnh tim mạch như rung nhĩ, và các yếu tố liên quan đến lối sống không lành mạnh như hút thuốc lá, lạm dụng rượu bia, ăn mặn và ít vận động. Đặc biệt, việc không tuân thủ chỉ định của bác sĩ, không dùng đủ thuốc hoặc tự ý bỏ thuốc có thể làm tăng nguy cơ tái phát lên gấp 3-5 lần.
Đột quỵ tái phát thường không có những dấu hiệu báo trước rõ ràng, nhưng người bệnh và người thân cần đặc biệt chú ý đến một số dấu hiệu cảnh báo sau: đột ngột yếu hoặc tê liệt tay, chân hoặc mặt (đặc biệt ở một bên cơ thể); nói khó, ngọng hoặc mất khả năng nói, hiểu, hoặc đột nhiên bị lẫn lộn, nhận thức kém; mắt nhìn mờ, mù một hoặc hai bên, nhìn đôi; đột ngột chóng mặt, mất thăng bằng, loạng choạng, vụng về tay chân; đau đầu dữ dội không rõ nguyên nhân, kiểu đau khác với đau đầu từng có trước đây.
Bác sĩ khuyến cáo, nếu người đã từng bị liệt hoặc yếu một bên mà giờ xuất hiện yếu thêm ở vùng khác, hoặc biểu hiện cũ nặng lên đột ngột, thì cần nghĩ ngay đến nguy cơ đột quỵ tái phát. Trong những trường hợp này, việc đưa bệnh nhân đến bệnh viện có khả năng điều trị đột quỵ càng sớm càng tốt là vô cùng quan trọng, bởi “thời gian là não”.
Admin
Nguồn: VnExpress