Ngày 7/8, TS.BS Phạm Đăng Hải, Trưởng Khoa Hồi sức Nội khoa và chống độc, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, khẳng định việc trang bị máy sốc tim tự động (AED) tại các địa điểm công cộng ở Việt Nam là vô cùng cần thiết và hoàn toàn khả thi. Thực tế cho thấy, rất nhiều trường hợp ngừng tim đột ngột xảy ra bên ngoài bệnh viện, thường gặp tại nơi làm việc, trường học, khu dân cư. Trong những tình huống khẩn cấp này, thời gian chính là yếu tố quyết định sự sống còn. Nếu không được hồi sức tim phổi (CPR) và sốc điện kịp thời, nạn nhân có thể tử vong chỉ trong vài phút do não bị thiếu oxy.
Nguyên nhân hàng đầu dẫn đến ngừng tim đột ngột thường là rung thất hoặc nhịp nhanh thất. Trong đó, biện pháp hiệu quả nhất để khôi phục nhịp tim là sốc điện kịp thời. Nếu được can thiệp bằng sốc điện trong vòng 3-5 phút đầu tiên, tỷ lệ sống sót của nạn nhân có thể tăng lên đến 50-70%. Ngược lại, nếu phải chờ xe cấp cứu đến sau 10-15 phút, cơ hội sống sót gần như bằng không, trừ khi có người can thiệp tại chỗ.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, nạn nhân ngừng tim ngoài bệnh viện có cơ hội sống sót cao gấp 2-3 lần nếu được cấp cứu bằng hồi sức tim phổi (CPR) kết hợp với máy sốc tim tự động (AED), so với việc chỉ hồi sức tim phổi đơn thuần.
Đồng quan điểm, Đại tá, BS.CK2 Nguyễn Văn Tân, Chủ nhiệm Khoa Cấp cứu lưu, Bệnh viện Quân y 175, nhấn mạnh rằng cấp cứu là một cuộc chạy đua với thời gian, đòi hỏi hành động nhanh chóng và chính xác trong “thời điểm vàng”. Chỉ cần chậm trễ một nhịp hoặc sai sót một thao tác cũng có thể làm mất đi cơ hội sống của bệnh nhân.
Máy AED hiện nay được thiết kế rất thông minh và dễ sử dụng, ngay cả đối với những người không có chuyên môn y tế. Máy có khả năng tự động phân tích nhịp tim và đưa ra hướng dẫn từng bước bằng giọng nói. Đặc biệt, máy chỉ thực hiện sốc điện khi phát hiện nhịp tim nguy hiểm, đảm bảo an toàn cho người sử dụng. Do đó, việc lắp đặt máy AED tại các địa điểm công cộng là một chiến lược cứu người hiệu quả, mang tính nhân đạo và hoàn toàn phù hợp với điều kiện thực tiễn, nếu có sự chuẩn bị tốt về đào tạo, hướng dẫn và bảo trì.
Nhiều quốc gia phát triển trên thế giới như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Mỹ và các nước châu Âu đã triển khai thành công mô hình này. Tại các quốc gia này, máy AED được lắp đặt rộng rãi tại các địa điểm tập trung đông người như sân bay, nhà ga, siêu thị, trường học, khu dân cư, trung tâm thể thao và được tích hợp vào hệ thống cấp cứu ngoại viện.
Bên cạnh đó, nhiều quốc gia còn phát triển các ứng dụng di động để giúp người dân định vị máy AED gần nhất và huy động tình nguyện viên hoặc nhân viên y tế đến hỗ trợ kịp thời. Một yếu tố quan trọng khác góp phần vào thành công của mô hình này là việc đưa kỹ năng sơ cứu và sử dụng máy AED vào chương trình giáo dục phổ thông, thậm chí yêu cầu học sinh từ cấp 2 trở lên phải học kỹ năng này như một phần bắt buộc.

Ông Tony Coffey, chuyên gia cấp cứu ngoại viện đến từ Australia, chia sẻ với VnExpress rằng, Australia đã trang bị máy sốc điện tự động ở nơi công cộng từ hơn 25 năm trước. Số lượng máy ngày càng tăng lên, góp phần cứu sống hàng nghìn người khi kết hợp với CPR. Việc áp dụng đồng thời AED và CPR giúp tăng cao cơ hội sống của bệnh nhân. Ông nhấn mạnh: “Việc trang bị máy AED ở những nơi công cộng là điều cần làm ngay tại Việt Nam, đồng thời phải triển khai chiến lược hướng dẫn người dân về sơ cấp cứu, bởi nếu có máy sốc điện mà không biết dùng thì nó chỉ nằm im lìm ở đó rất lãng phí”.
Việt Nam đang đối mặt với thách thức lớn từ tình trạng ngừng tim ngoại viện ngày càng phổ biến, trong khi cộng đồng còn thiếu kỹ năng sơ cứu. Để giải quyết vấn đề này, các chuyên gia đề xuất cần có chính sách cụ thể để trang bị máy AED tại các khu vực công cộng. Việc triển khai này cần đi kèm với khung pháp lý rõ ràng, quy định về đối tượng và tình huống được phép sử dụng, cùng với trách nhiệm pháp lý liên quan.

Bên cạnh đó, việc tổ chức các chương trình huấn luyện kỹ năng sử dụng AED và CPR cho cộng đồng là bước đi thiết thực. Điều này sẽ góp phần xây dựng một hệ thống phản ứng cấp cứu nhanh, tăng cơ hội sống cho người gặp nạn ngay từ những phút đầu tiên.
PGS.TS.BS Đỗ Văn Dũng, nguyên Trưởng khoa Y tế công cộng, Trường Đại học Y dược TP.HCM, nhấn mạnh rằng việc đào tạo kỹ năng này không quá phức tạp nếu có mô hình huấn luyện bài bản. Điều quan trọng là xây dựng các tình huống giả định sát thực tế, với đội ngũ giảng viên có chuyên môn và khả năng phản hồi chính xác, giúp người học tự tin xử lý tình huống. Kỹ năng này cần được thực hành định kỳ, lý tưởng nhất là mỗi 12 tháng, để người học thành thạo hơn và giảm thời gian chần chừ khi đối mặt với ca ngừng tim thực tế.
Bác sĩ Hải cho rằng thách thức lớn nhất khi triển khai AED tại Việt Nam không nằm ở thiết bị mà ở nhận thức, kỹ năng và tâm lý sẵn sàng sơ cứu của cộng đồng. Tuy nhiên, ông khẳng định việc triển khai hoàn toàn khả thi nếu có lộ trình phù hợp và sự phối hợp liên ngành.
Để hiện thực hóa mục tiêu này, bác sĩ Hải đề xuất ba nhóm giải pháp trọng tâm. Thứ nhất, cần triển khai thí điểm ở những nơi có nguy cơ cao, dân trí cao, dễ tiếp cận, ưu tiên các thành phố lớn như Hà Nội, TP HCM và những nơi tập trung đông người như sân bay, nhà ga, trung tâm thương mại, khu công nghiệp, trường đại học, chung cư. Máy AED cần đi kèm với hướng dẫn sử dụng đơn giản, có hình ảnh minh họa rõ ràng.
Thứ hai, cần đẩy mạnh đào tạo cộng đồng thông qua các khóa học ngắn về CPR và cách sử dụng AED cho bảo vệ, giáo viên, nhân viên tòa nhà, tình nguyện viên, và lồng ghép vào chương trình học từ cấp 2 trở lên. Đồng thời, cần tăng cường truyền thông đại chúng để thay đổi nhận thức rằng “ai cũng có thể cứu người”.
Cuối cùng, cần xây dựng hành lang pháp lý và tăng cường phối hợp liên ngành, bao gồm việc ban hành các quy định pháp lý rõ ràng về việc trang bị AED tại các công trình công cộng, chính sách bảo vệ pháp lý cho người sơ cứu để tránh tâm lý e ngại can thiệp. Bên cạnh đó, cần thành lập mạng lưới tình nguyện viên sơ cứu cộng đồng, được kết nối qua tổng đài hoặc ứng dụng điện thoại để rút ngắn thời gian phản ứng.
Admin
Nguồn: VnExpress