80 năm trước: Chuyển giao quyền lực nhà nước phong kiến Việt Nam

Trong bối cảnh Chiến tranh Thế giới thứ hai (1939-1945), Việt Nam chịu sự đô hộ kép của Pháp và Nhật, đồng thời bị quản lý bởi triều đình nhà Nguyễn dưới sự trị vì của vua Bảo Đại. Sau cuộc đảo chính Pháp vào tháng 3/1945, Nhật Bản dựng lên Chính phủ Trần Trọng Kim, thay thế cho triều đình phong kiến. Tuy nhiên, thực quyền nằm trong tay quân Nhật, vua Bảo Đại chỉ còn là biểu tượng của chế độ quân chủ.

Lúc này, phong trào Việt Minh do Hồ Chí Minh lãnh đạo ngày càng lớn mạnh, tổ chức nhiều hoạt động kháng chiến hiệu quả và nhận được sự ủng hộ rộng rãi từ nhân dân. Chính phủ Trần Trọng Kim cố gắng cải thiện đời sống dân sinh, nhưng sự khống chế của quân Nhật và sự bất lực trước tình hình đã khiến họ mất dần sự tín nhiệm. Khi Nhật Bản tuyên bố đầu hàng Đồng minh vào ngày 15/8/1945, chính phủ này gần như sụp đổ.

Theo hồi ký của ông Phạm Khắc Hòe, Đổng lý Ngự tiền văn phòng triều Bảo Đại, Thủ tướng Trần Trọng Kim nhiều lần cáo bệnh, nghi ngờ về tin Nhật đầu hàng, nhưng vẫn âm thầm bàn tính với thân tín về việc dựa vào thực dân Pháp. Trong khi đó, một số quan lại triều đình nhận thấy việc bám víu vào ngai vàng là vô nghĩa và bắt đầu bàn bạc về việc vận động vua thoái vị.

Giữa tháng 8/1945, ông Phạm Khắc Hòe liên tục báo tin cho vua về việc nhiều địa phương như Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Phong Điền (Thừa Thiên) đã giành được chính quyền. Tại Huế, dân quân luyện tập ngày đêm, các cuộc biểu tình nổ ra với cờ đỏ sao vàng và khẩu hiệu “Ủng hộ Việt Minh”, “Đả đảo phát xít”. Áp lực cách mạng ngày càng gia tăng, buộc nội các phải liên tục họp khẩn.

Trong cuộc họp do Bảo Đại chủ trì vào sáng 17/8, Bộ trưởng Ngoại giao Trần Văn Chương trình bày dự thảo thông điệp gửi đến lãnh đạo các nước Mỹ, Anh, Trung Hoa, Pháp, kêu gọi bảo vệ nền độc lập “giành từ tay Nhật”. Bộ trưởng Nội vụ Trần Đình Nam đề nghị bổ sung Liên Xô vì vai trò quan trọng của nước này trong việc buộc Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện. Ý kiến này được Bộ trưởng Y tế Hồ Tá Khanh ủng hộ, nhưng bị Thủ tướng Trần Trọng Kim và Trần Văn Chương phản đối gay gắt. Vua Bảo Đại đứng về phía phản đối và yêu cầu chấm dứt tranh cãi.

Khi chuyển sang vấn đề đối nội, ông Nam cho rằng điều quan trọng nhất là toàn dân đoàn kết xung quanh tổ chức mạnh nhất, hăng hái nhất, tức là Việt Minh, để ngăn chặn âm mưu chia rẽ của nước ngoài. Ông đề nghị nội các lập tức rút lui, trao toàn bộ quyền bính cho Việt Minh.

“Theo tôi nghĩ thì cả Hoàng đế cũng nên rút lui”, ông Nam vừa dứt lời, Thủ tướng Trần Trọng Kim đã phản đối, làm cuộc tranh luận trở nên gay gắt.

Bộ trưởng Tài chính Vũ Văn Hiền lập luận rằng trong tình hình hiện tại, cần có một chính phủ hợp pháp để giữ trật tự, đối phó với Đồng minh và ngăn chặn Pháp quay trở lại. Ông đề xuất giao thực quyền cho Việt Minh, nhưng vẫn duy trì chế độ quân chủ với một nội các Việt Minh. Phương án này được các luật sư giữ chức bộ trưởng phân tích kỹ lưỡng, sau đó toàn thể nội các triều đình tán thành.

Mô hình về lễ thoái vị của vua Bảo Đại từng được Bảo tàng lịch sử TP Huế phục dựng để phục vụ khách tham quan. Ảnh: Đức Lộc
Tái hiện lễ thoái vị của vua Bảo Đại tại Bảo tàng Lịch sử Huế. Ảnh: Internet

Nội các giao cho ông Phạm Khắc Hòe soạn Dụ số 105 ngày 17/8/1945, gồm hai điểm: Nhà vua sẵn sàng giao chính quyền cho Việt Minh và mời lãnh tụ Việt Minh về Huế để thành lập nội các. Việc lựa chọn chính thể sẽ do nhân dân quyết định, và nhà vua cam kết tuân theo ý chí của nhân dân. Bảo Đại tỏ ra hào hứng khi phê chuẩn Dụ vì tin rằng mình vẫn có thể giữ được ngai vàng.

Ông Trần Đình Nam sau đó đề nghị Bảo Đại hạ Chiếu kêu gọi động viên quốc dân, và ông Phạm Khắc Hòe đã soạn thảo bản dự thảo. Chiếu này khẳng định ý chí giữ vững độc lập của dân tộc, kêu gọi lòng yêu nước, sự phò tá của người dân đối với vua và nêu cao tinh thần hy sinh của hoàng đế.

Vua Bảo Đại trao ấn kiếm cho đại diện Chính phủ lâm thời tại lầu Ngũ Phụng, chiều 30/8/1945. Ảnh: Bảo tàng lịch sử T Huế cung cấp
Lễ trao ấn kiếm của vua Bảo Đại, 30/8/1945 (Ảnh tư liệu Huế). Ảnh: Internet

Trong dự thảo Chiếu động viên quốc dân có câu “Trẫm thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ”. Ban đầu Bảo Đại thích câu này, nhưng khi ông Hòe trình bản chiếu thì vua đọc lại một cách lắp bắp, như đang đấu tranh nội tâm. Cuối cùng, vua đặt bút ký, nhưng vẫn còn băn khoăn vì chưa biết lãnh tụ Việt Minh là ai và liệu có thể giữ được chế độ quân chủ hay không.

Ông Hòe kể cho vua nghe câu sấm Nghệ Tĩnh: “Đụn Sơn phân giải, Bò Đái phát thanh, Nam Đàn sinh thánh”, và người dân đã gán “thánh” với Nguyễn Ái Quốc. Thấy hứng thú trước “điềm trời”, Bảo Đại hỏi: “Ông muốn khuyên trẫm thoái vị, nhường hết quyền bính cho Việt Minh?”. Khi ông Hòe xác nhận, nhà vua nói: “Nếu đúng người cầm đầu Việt Minh là thánh Nguyễn Ái Quốc thì tôi sẵn sàng thoái vị”.

Chiều 22/8, một số người hoạt động trong Việt Minh leo lên kỳ đài trước Ngọ Môn, hạ cờ vàng của nhà vua xuống và kéo cờ đỏ sao vàng lên. Bảo Đại rất buồn bực khi biết tin này, một phần vì binh lính không túc trực làm nhiệm vụ ở kỳ đài, nhiều lính khố vàng đã ngả theo Việt Minh, và một phần vì chưa báo cáo việc thoái vị với tổ tiên, chưa có đại biểu của Chính phủ cách mạng Trung ương vào mà đã hạ cờ.

Nhà vua thậm chí còn năn nỉ ông Hòe đi tìm người đại diện Việt Minh để dàn xếp việc hạ cờ đỏ sao vàng xuống và kéo cờ vàng lên, như một cách để giữ chút thể diện cho triều đình, nhưng không thành công. Trên kỳ đài ven sông Hương, cờ đỏ sao vàng vẫn tung bay phấp phới.

Sáng 23/8, lãnh đạo Việt Minh gửi tối hậu thư đến Bảo Đại, yêu cầu giao lại đội lính khố vàng cùng tất cả trang bị, vũ khí, đạn dược cho chính quyền cách mạng. Nhà vua phải ra lệnh cho tất cả tỉnh trưởng giao quyền cho cách mạng, tức là cho Việt Minh. Thời gian trả lời thư là trước 13h30.

Mặc dù thư được đưa vào cung từ sáng sớm, nhưng đến gần 12h mới đến tay vua. Bực tức vì chỉ còn hơn một giờ là đến thời hạn triều đình phải thực hiện theo yêu cầu của Việt Minh, vua Bảo Đại bỏ vào phòng và nói: “Thôi mặc kệ các ông, các ông muốn làm chi thì làm.”

Thấy nhà vua sa sút tinh thần, ông Hòe khuyên vua bình tĩnh và đề nghị triệu tập ngay nội các để bàn hai việc: Trả lời tối hậu thư và thông qua dự thảo chiếu thoái vị. Cuộc họp diễn ra lúc 12h25 tại Đại nội, không khí căng thẳng. Khi bàn về tối hậu thư, mọi người thống nhất chấp nhận toàn bộ điều kiện của Việt Minh.

Sang vấn đề dự thảo chiếu thoái vị, chỉ có Bộ trưởng Nội vụ Trần Đình Nam lên tiếng đề nghị bỏ cụm “nồi da nấu thịt” để tránh sắc thái bi lụy, thay bằng “Nam Bắc phân tranh” cho trang trọng và ôn hòa hơn. Đề xuất này nhanh chóng được tán thành, và bản dự thảo được toàn thể nội các thông qua.

Kết thúc buổi họp, Thủ tướng Trần Trọng Kim buông một câu kết vừa pha chút mỉa mai, vừa lộ rõ sự lo lắng: “Thôi, bây giờ mọi việc đều do ông Hòe làm và chịu trách nhiệm, không cần phải có nội các nữa”. Đó cũng là câu nói khép lại phiên họp nội các cuối cùng của triều đại phong kiến nhà Nguyễn.

Ông Hòe kể rằng từ khi quyết định thoái vị, Bảo Đại trở nên lạc quan hơn, chia sẻ về cuộc sống của một công dân tự do sau này, dự định về đồn điền chè ở B’Lao (Lâm Đồng) để trồng chè và săn bắn, thậm chí còn hứa cho ông Hòe thuê ôtô để chạy xe đò.

Chiều 26/8/1945, vua Bảo Đại lặng lẽ làm lễ cáo yết tổ tiên tại Thế Miếu. Mặc dù đã được thông báo trước, nhưng chỉ có bốn quan theo hầu. Hai ngày sau, theo lệnh vua, ông Phạm Khắc Hòe tổ chức kiểm kê tài sản công trong Đại nội, từ vàng bạc, ngọc ngà đến cổ vật triều Nguyễn, để bàn giao cho chính quyền cách mạng.

Nhận được điện tín của Bảo Đại mời vào kinh thành để nhận lễ thoái vị, ngày 27/8, Chính phủ lâm thời đã giao cho ông Trần Huy Liệu làm trưởng đoàn, cùng với hai ông Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận lên đường. “Hôm ấy, Hồ Chủ tịch còn ở khu Giải phóng, chưa về đến Hà Nội”, ông Liệu kể lại trong hồi ký.

Sáng 29/8, tại sân vận động Huế, ông Hòe đón phái đoàn Chính phủ từ Hà Nội vào. Hai bên sau đó gặp nhau tại Ủy ban Nhân dân Huế, thống nhất các điều khoản: Vua giao chính quyền, rời khỏi Đại nội, được giữ lại của cải riêng, bao gồm những bất động sản mang tên riêng của vua, và hưởng quyền công dân; lăng tẩm, đền miếu do Nhà nước bảo tồn; hoàng tộc được lui tới phụng thờ tổ tiên.

Chiều cùng ngày, vua Bảo Đại tiếp đoàn tại điện Kiến Trung. Trước khi gặp mặt vua, đại biểu Chính phủ lâm thời đã thỏa thuận cặn kẽ từ cử chỉ đến cách nói chuyện. Mọi người thống nhất rằng dù là những người thắng trận, cũng tuyệt đối không kiêu căng, khiêu khích, nhất là đối với một vị vua đã biết khuất phục trước phong trào dân chủ rộng lớn từ Bắc chí Nam.

“Có một điều chúng tôi cân nhắc nhiều là cách xưng hô. Chúng tôi có sẽ gọi vua Bảo Đại bằng bệ hạ nữa không? Và vua có sẽ xưng trẫm với chúng tôi nữa không? Kết luận, chúng tôi nhất định gọi nhà vua là ngài và xưng chúng tôi, còn nhà vua muốn tự xưng là gì cũng được”, ông Liệu kể trong hồi ký.

Tại phòng khách, vua Bảo Đại mặc áo dài màu hồ thủy, đầu trần tiếp đoàn. Sau khi cúi chào, hai bên ngồi trò chuyện. Đổng lý Ngự tiền văn phòng Phạm Khắc Hòe cáo lui, để lại ba đại biểu Chính phủ lâm thời và nhà vua.

Kinh thành Huế với phía trước là Ngọ Môn, phía sau là Điện Thái Hòa, ảnh chụp tháng 8/2025. Ảnh: Nguyễn Đông
Khám phá Kinh thành Huế: Ngọ Môn và điện Thái Hòa (Ảnh 2025). Ảnh: Internet

Trong cuộc nói chuyện, Bảo Đại xưng “tôi” thay cho “trẫm”, gọi các đại biểu là “ông” một cách tự nhiên. Ông Trần Huy Liệu nhắc lại những điều đã hứa với ông Hòe buổi sáng, đồng thời khen ngợi tấm lòng yêu nước, yêu dân chủ của nhà vua, khiến không khí trở nên thân mật hơn. Khi được hỏi về nỗi khổ tâm trên ngai vàng, Bảo Đại đáp: “Tôi còn ở ngai vàng ngày nào thì còn bị bọn Pháp lợi dụng ngày ấy”.

Hai bên thống nhất rằng chiều 30/8, nhà vua sẽ thoái vị trước Ngọ Môn, để việc rời ngai vàng “có một vang bóng” và có dịp giãi bày với quốc dân.

Sáng 30/8, Huế rực rỡ cờ đỏ sao vàng. Hàng chục nghìn người từ khắp nơi đổ về Ngọ Môn, vừa háo hức, vừa trang nghiêm. Trước giờ hành lễ, vì muốn có một biểu tượng rõ rệt, lãnh đạo Chính phủ lâm thời đã truyền lệnh tạm hạ cờ đỏ sao vàng xuống để treo cờ vàng của nhà vua lên.

16h cùng ngày, trên lầu Ngũ Phụng, Bảo Đại xuất hiện với khăn vàng, áo vàng, quần trắng, giày thêu rồng, nét mặt điềm tĩnh pha chút nặng nề. “Nhà vua, bằng một giọng cảm động, đứng trước máy truyền thanh, đọc bản chiếu tự nguyện thoái vị. Dân chúng im phăng phắc nghe tâm sự của một ông vua sắp trở lại làm dân”, ông Liệu thuật lại trong hồi ký.

Sau khi vua Bảo Đại đọc bản chiếu cuối cùng của triều đại, ông Trần Huy Liệu thay mặt Chính phủ lâm thời nhận chiếu thoái vị, quốc ấn và thanh kiếm vàng nạm ngọc – hai bảo vật tượng trưng cho quân quyền từ Bảo Đại. Thời khắc ấy, một tràng súng lệnh nổ rền vang. Trên kỳ đài, cờ vàng hạ xuống, lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên giữa tiếng hoan hô như sấm của người dân.

Theo hồi ức của nhà thơ Cù Huy Cận, chiếc ấn vàng của triều Nguyễn rất nặng, khiến ai cũng bất ngờ khi nâng nó (ấn Hoàng Đế Chi Bảo, đúc năm Minh Mạng thứ 4 – 1823, trọng lượng hơn 282 lượng vàng, tức gần 11 kg). Còn chiếc kiếm chuôi nạm ngọc, nằm trong vỏ bằng bạc mạ vàng, khi ông thử rút ra thì thấy lưỡi thép đã có vết hoen gỉ.

Đáp lại lời tự nguyện thoái vị của vua Bảo Đại, ông Trần Huy Liệu tuyên bố cáo chung chế độ quân chủ trên đất Việt Nam, đồng thời nêu rõ đường lối của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cựu hoàng Bảo Đại khi đó đề nghị được gắn huy hiệu cờ đỏ sao vàng. Đại diện Chính phủ đã giúp ông mãn nguyện, gắn huy hiệu cờ đỏ lên ngực áo cựu hoàng, giờ đã trở lại với tên gọi Vĩnh Thụy, một công dân mới của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Khi ra về, ông Liệu cùng nhiều người nhìn thấy vẻ mặt hớn hở của công dân Vĩnh Thụy. Bên ngoài Ngọ Môn và trên bờ sông Hương, dân chúng vẫn diễu hành với khẩu hiệu: “Hoan hô tinh thần dân chủ của công dân Vĩnh Thụy! Hoan hô đại biểu Chính phủ lâm thời! Việt Nam Dân chủ Cộng hòa muôn năm!”

Ông Nguyễn Đức Lộc, Giám đốc Bảo tàng Lịch sử TP Huế, cho biết, sau 80 năm, câu chuyện vua Bảo Đại thoái vị vẫn được lưu giữ qua biển bảng, thuyết minh, triển lãm, sách báo và ký ức của người dân, biến Ngọ Môn thành biểu tượng tinh thần độc lập dân tộc. “Sự kiện này thể hiện sức mạnh đoàn kết toàn dân, nguyên lý chiến tranh nhân dân và là một bài học cần phát huy”, ông nói.

Sự kiện thoái vị của vua Bảo Đại không chỉ là dấu chấm hết cho chế độ phong kiến ở Việt Nam, mà còn là biểu tượng của tinh thần đoàn kết toàn dân, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam dưới chế độ dân chủ cộng hòa.

Admin


Nguồn: VnExpress

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *