Ban đầu, chị Ngọc chỉ cảm thấy những triệu chứng mơ hồ như khô mắt, rối loạn tiền đình và các dấu hiệu tiền mãn kinh. Tuy nhiên, việc điều trị bằng thuốc không mang lại hiệu quả. Đến khi thăm khám tại một bệnh viện, bác sĩ phát hiện chị bị tràn dịch màng phổi. Kết quả sinh thiết cho thấy chị đã mắc ung thư phổi giai đoạn 4, với các tế bào ác tính đã di căn đến não, xương, hạch trung thất và hạch thượng đòn.

Trong tình trạng mắt mờ, nói khó, tay trái bị phù và khó thở, chị Ngọc tìm đến Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM. ThS.BS Ngô Tuấn Phúc, khoa Ung bướu, cho biết các khối u di căn ở não của chị đã phát triển rất nhanh, gây phù não xung quanh và choán chỗ rải rác ở cả hai bán cầu đại não và tiểu não. Sự chèn ép lên não thất bên trái là nguyên nhân gây ra các triệu chứng mà chị Ngọc gặp phải.
Sau khi hội chẩn, các bác sĩ nhận thấy bệnh nhân bị tăng áp lực nội sọ nghiêm trọng, điều này khiến việc xạ trị não ngay lập tức trở nên bất khả thi. Thay vào đó, ê-kíp đã quyết định điều trị nội khoa để giảm phù não, đồng thời tiến hành sinh thiết hạch cổ phải và giải trình tự gene. Kết quả cho thấy chị Ngọc mang đột biến gene ALK và TP53.
Theo bác sĩ Phúc, đột biến gene ALK chiếm tỷ lệ 4,4-6,7% trong số các ca ung thư phổi không tế bào nhỏ. Loại đột biến này thường được phát hiện khi ung thư đã di căn đến não hoặc khi bệnh tiến triển. Trong khi đó, đột biến gene TP53 phổ biến hơn nhưng thường liên quan đến tiên lượng xấu và khả năng đáp ứng điều trị kém. Bác sĩ đã chỉ định cho chị Ngọc sử dụng thuốc nhắm trúng đích đặc hiệu với đột biến ALK. Loại thuốc này có tác dụng ngăn chặn hoạt động của đột biến gene, giúp kiểm soát các triệu chứng, làm chậm sự tiến triển của bệnh và kéo dài thời gian sống cho bệnh nhân.
Sau hơn 17 tháng điều trị, sức khỏe của chị Ngọc đã ổn định. Chị tiếp tục duy trì việc uống thuốc và tái khám định kỳ theo chỉ định của bác sĩ.
Ung thư phổi vốn có khả năng di căn cao, trong đó não là một trong những cơ quan thường bị ảnh hưởng nhất, bên cạnh xương, gan, tuyến thượng thận và hạch. Các tế bào ung thư có thể xâm nhập vào mạch máu hoặc hệ bạch huyết, di chuyển đến não và vượt qua hàng rào máu não để hình thành các khối u thứ phát.

Các triệu chứng của ung thư phổi di căn não có thể khác nhau tùy thuộc vào số lượng, vị trí và kích thước của khối u trong não. Một số triệu chứng thường gặp bao gồm đau đầu kéo dài, hoa mắt, chóng mặt, giảm trí nhớ, mất tập trung, rối loạn vận động, yếu liệt tay chân, rối loạn ngôn ngữ và thay đổi hành vi.
Hiện nay, có nhiều phương pháp điều trị ung thư phổi di căn não, bao gồm xạ trị, thuốc nhắm trúng đích, hóa trị và liệu pháp miễn dịch. Trong đó, xạ trị sử dụng chùm tia xạ để tiêu diệt các tế bào ung thư trong não. Bệnh nhân ung thư phổi có thể được chỉ định một hoặc kết hợp nhiều phương pháp điều trị cùng lúc để đạt hiệu quả tốt nhất.
Do ung thư phổi thường không có triệu chứng rõ ràng ở giai đoạn đầu, phần lớn các trường hợp được phát hiện khi bệnh đã di căn. Vì vậy, tầm soát định kỳ bằng chụp CT liều thấp đóng vai trò quan trọng trong việc phát hiện bệnh sớm, từ đó tăng cơ hội điều trị khỏi và cải thiện chất lượng sống cho người bệnh.
Bác sĩ Phúc khuyến cáo những người có nguy cơ cao mắc ung thư phổi, chẳng hạn như người từ 50 đến 80 tuổi, có tiền sử hút thuốc lá nhiều năm, tiếp xúc với các chất độc hại (amiăng, khí độc công nghiệp) hoặc có người thân mắc ung thư phổi, nên tầm soát ung thư phổi định kỳ. Đối với bệnh nhân đã điều trị ung thư phổi, việc tái khám đúng lịch và đến bệnh viện ngay khi có các triệu chứng bất thường như đau đầu, nhìn mờ, chóng mặt, yếu tay chân… là vô cùng quan trọng để được kiểm tra và can thiệp kịp thời.
Admin
Nguồn: VnExpress