Hành trình trở thành nhà tình báo của giáo sư Nguyễn Đình Ngọc bắt đầu từ một biến cố đau thương: chứng kiến người cha bị sát hại dã man ngay trước mắt. Lời trăn trối của cha trước khi qua đời – “Con ở lại cố học cho giỏi và giúp người khác. Dân mình khổ trước hết vì giặc dốt” – đã khắc sâu vào tâm trí cậu bé.
Từ đó, trong lòng chàng trai trẻ nhen nhóm hai khát vọng lớn: một là thực hiện di nguyện của cha, hết lòng với Toán học; hai là trả thù cho cha và đánh đuổi quân xâm lược.
Bước ngoặt định mệnh xảy đến vào năm 1953, khi Nguyễn Đình Ngọc trốn tránh việc bị bắt lính. Trên đường chạy trốn, chàng trai 21 tuổi gặp một người đồng hành. Sau ba ngày đêm cùng nhau, khi đặt chân đến Vinh (Nghệ An), Đình Ngọc mới biết người bạn đồng hành là cán bộ cách mạng.
Nguyễn Đình Ngọc được đưa đến gặp ông Nguyễn Hữu Khiếu, Giám đốc Công an Liên khu 4, và bắt đầu một năm huấn luyện kỹ năng điện báo. Sau khóa huấn luyện, ông được giao nhiệm vụ trở thành điệp báo đơn tuyến, hoạt động bí mật mà không ai biết, ngoại trừ người chỉ huy trực tiếp.
Trước khi lên đường, ông Khiếu trao cho Ngọc một nửa dây inox của chiếc đồng hồ Omega, căn dặn: “Một ngày nào đó sẽ có người tìm cậu, đưa ra chiếc đồng hồ thiếu nửa dây. Khớp lại vừa khít, ấy chính là KD1 – người truyền mệnh lệnh trực tiếp cho cậu”.
Thời điểm đó, Đảng nhận định chính quyền Sài Gòn sẽ tìm mọi cách phá hoại hiệp thương, ngăn chặn tổng tuyển cử, chia cắt đất nước. Để chuẩn bị cho cuộc chiến lâu dài, ta cần sớm xây dựng lực lượng nằm vùng. Nhiệm vụ của Nguyễn Đình Ngọc là học hành đến nơi đến chốn, đạt được nhiều bằng cấp.

Năm 1954, Nguyễn Đình Ngọc một mình vào Nam. Tại Sài Gòn, ông hoàn thành chương trình cử nhân và được cấp trên chỉ thị: “Tìm đường ra nước ngoài, học lên cao hơn nữa”.
Tháng 11/1955, Nguyễn Đình Ngọc sang Pháp du học. Trong 10 năm tiếp theo, ông lấy 5 bằng cấp về kỹ sư khí tượng thủy văn, viễn thông, đóng tàu, tiến sĩ Toán và khí tượng động lực. Ông thông thạo bốn ngoại ngữ, là giáo sư thỉnh giảng tại nhiều trường đại học ở Pháp và từng làm việc tại Viện Nghiên cứu khoa học cao cấp (IHES).

Giữa Paris hoa lệ, hình ảnh một “giáo sư lập dị” dần hình thành. Ông sống khép kín, vùi đầu vào sách vở, tài liệu. Trên giảng đường, Đình Ngọc giảng bài say sưa, không cần giáo án, kiến thức uyên bác được truyền đạt mạch lạc.
Ẩn sau vẻ ngoài khác biệt ấy là một dụng ý sâu xa. Ông rèn luyện trí nhớ, biến nó thành vũ khí tối thượng. Trong tình huống cần nắm giữ kế hoạch quân sự tuyệt mật hay ghi nhớ chi tiết các cuộc trò chuyện, trí nhớ là yếu tố then chốt.
Năm 1966, giáo sư Nguyễn Đình Ngọc nhận lệnh về nước, chính thức bắt đầu sự nghiệp điệp viên đơn tuyến.
Tại Đại học Khoa học Sài Gòn, sự lập dị của ông Ngọc ngày càng tăng. Ông chỉ ăn một bữa mỗi ngày để có thời gian làm việc, đi bộ hoặc đạp xe, sống thanh đạm, cửa nhà khóa bằng 7 ổ khóa lớn nhỏ. Ông còn có thói quen đi giật lùi để phát hiện kẻ theo dõi, ngủ ngồi, nằm ngoài ban công hoặc trên nền gạch trải báo, rèn luyện bản thân đối phó với tình huống bị bắt hoặc tra tấn.

Những hành động khác thường của ông thu hút sự chú ý của mọi người. Có lần, một đứa trẻ hỏi ông tại sao hai tay xoay ngược trong túi quần. Ông giải thích rằng quần bị rách nên phải mặc ngược.
Một buổi sáng chủ nhật, một sinh viên đến thăm giáo sư Nguyễn Đình Ngọc. Sau khi mọi người ra về, chàng trai nán lại và hỏi: “Thầy còn giữ nửa dây đồng hồ Omega không?”.
Ông sững người. Đó là mật hiệu từ hơn 10 năm trước. Chàng sinh viên tự xưng là liên lạc của KD1, báo ông đến Đại học Huế gặp “Cô Phương Lan”.
Trong cuộc gặp gỡ đó, giáo sư được giao mật danh “Diệp Sơn”, nhận nhiệm vụ xâm nhập sâu vào giới trí thức và thượng lưu Sài Gòn, mở rộng quan hệ với cả tướng tá Ngụy và cố vấn Mỹ.
Ngoài danh tiếng giáo sư Toán học, ông Ngọc còn có tài xem tử vi. Ban đầu chỉ là một chiêu thức của người giỏi toán, nhưng dần dà, tài năng này giúp ông được tin tưởng, tiếp cận nhiều nhân vật cấp cao.
Một lần, Diệp Sơn nghe được kế hoạch hành quân của Mỹ ngụy về trận càn Cedar Falls. Ông viết toàn bộ thông tin bằng mực hóa học lên mặt trái nhãn hộp sữa, dán lại như cũ và chuyển cho “Cô Phương Lan”. Sau đó, ông báo cho cấp trên về diễn biến chiến dịch Junction City (tháng 11/1966), dự đoán Mỹ sẽ tăng cường quân viễn chinh vào chiến trường miền Nam năm 1968.
Sau những chiến công này, điệp báo Diệp Sơn được biên chế vào Trung ương Cục miền Nam, hoạt động đơn tuyến cùng nhóm Hai Tân, tức Nguyễn Phước Tân (sau này là Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh).
Trung tướng Nguyễn Phước Tân đánh giá cao những đóng góp của Nguyễn Đình Ngọc, đặc biệt là ba chiến công quan trọng: báo trước 72 giờ để Trung ương Cục Miền Nam kịp sơ tán, tránh cuộc càn quét lớn của Mỹ năm 1970; báo trước cuộc đảo chính Lon Nol – Sirik Matak lật đổ Sihanouk và việc chính phủ mới thân Mỹ sẽ gây khó khăn cho cơ quan đầu não của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đóng trên đất Campuchia; báo trước 24 giờ rằng Mỹ sẽ không quay lại giúp chính quyền Sài Gòn khi ta tổng tiến công mùa xuân 1975.
“Trong đời tôi chỉ đạo nhiều người, nhưng tôi tin cậy nhất là Nguyễn Đình Ngọc. Anh Ngọc là một con người mẫu mực về lòng can đảm và trung thành”, Trung tướng Phước Tân khẳng định.
Sau khi đất nước thống nhất, Nguyễn Đình Ngọc khoác lên mình bộ quân phục công an, giữ chức vụ Phó Cục trưởng rồi Cục trưởng Cục V17 (Khoa học Viễn thông và Tin học), trước khi về hưu với hàm thiếu tướng. Ông tiếp tục giảng dạy, tham gia sáng lập nhiều trường đại học, để lại dấu ấn trong lĩnh vực tình báo, khoa học và giáo dục.
Nghề tình báo đòi hỏi sự hy sinh thầm lặng, đôi khi phải chấp nhận hiểu lầm. Vì vậy, ngay cả khi đất nước hòa bình, giáo sư Ngọc vẫn giữ kín về quá khứ hoạt động của mình. Chỉ sau khi ông qua đời năm 2006, chân dung điệp báo Diệp Sơn mới dần được hé lộ.
Trong ký ức của vợ, phó giáo sư Trương Mỹ Dung, ông Ngọc là người giản dị, ít nói về bản thân. Bà kể rằng ông từng bị địch nghi ngờ, đến nhà điều tra nhưng không có bằng chứng nên phải thả. “Cái lập dị của anh ai cũng thấy, nhưng sự gan dạ, mưu trí, sống giữa lòng địch mà vẫn bình an trở về thì ít người biết”, bà chia sẻ.
Bà Dung còn kể về hàng chục cuốn sách toán học bằng tiếng Pháp, Đức, Nga được ông Ngọc chép tay tỉ mỉ. Bà đã tặng 60 cuốn trong số này cho Bảo tàng Di sản các nhà khoa học Việt Nam.
Với nhà giáo nhân dân Nguyễn Hữu Việt Hưng, ông Ngọc vừa là thầy, vừa là bạn. Cả hai luận án tiến sĩ và tiến sĩ khoa học của giáo sư Hưng đều do thiếu tướng Nguyễn Đình Ngọc phản biện.
Năm 2007, sau một hội nghị ở Paris, một học giả gốc Do Thái tìm đến ông Hưng và hỏi: “Anh có biết Nguyễn Đình Ngọc không?”. Cuộc gặp gỡ nhanh chóng trở nên thân mật, cả hai cùng nhau tưởng nhớ người bạn lớn đã khuất.
“Người Việt lưu lạc khắp thế giới không hiếm. Nhưng mấy ai sau 40-50 năm vẫn được bạn bè quốc tế lừng lẫy nhớ đến”, giáo sư Hưng xúc động nói. “Cuộc đời Nguyễn Đình Ngọc chính là một cuốn tiểu thuyết”.
Admin
Nguồn: VnExpress