Trong ký ức của tôi, ngày Quốc khánh vẫn vẹn nguyên như một thước phim sống động. Cùng với khoảng hai mươi người bạn từ nhóm Học sinh Cứu quốc trường Khải Định (sau này là Quốc học Huế), tôi hòa mình vào dòng người hân hoan tiến về cửa Ngọ Môn.
Từ sân Ngọ Môn chật kín người, tôi nhìn lên và thấy vua Bảo Đại trong bộ áo dài triều phục màu vàng, cùng một vài người Âu phục đứng bên cạnh. Vua tiến sát ra phía cửa thành, hướng về đám đông và giơ cao một chiếc mâm phủ vải vàng. Tiếng ồn ào chợt im bặt, cả biển người chìm vào tĩnh lặng. Vị vua thứ 13 của triều Nguyễn chuẩn bị đọc tuyên bố thoái vị.
Dù thời gian đã lùi xa, một câu nói vẫn còn vang vọng trong tâm trí tôi: “Trẫm ưng làm dân của một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ.”
Sau lời tuyên bố, vua Bảo Đại trao chiếc mâm phủ vải vàng cho một người mặc Âu phục đứng bên cạnh. Về sau, chúng tôi biết đó là ông Trần Huy Liệu, đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cùng với hai ông Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận.
Ông Trần Huy Liệu giơ cao chiếc mâm đựng ấn tín và gươm của triều Nguyễn trước đám đông, tuyên bố chấm dứt hơn một ngàn năm chế độ quân chủ và triều đại nhà Nguyễn.
Ngay sau đó, lá cờ quẻ Ly của triều Nguyễn từ từ hạ xuống, và lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên. Tiếng hoan hô vang dội từ cửa Ngọ Môn lan tỏa ra khắp dòng sông Hương, nơi những chiếc thuyền đậu san sát rực rỡ dưới màu cờ.
Cùng với hình ảnh lá cờ ấy, tôi tiếp tục tham gia kháng chiến. Năm 16 tuổi, tôi trốn nhà lên chiến khu, tham gia Đoàn Tuyên truyền kháng chiến, rồi Quân y vụ Liên khu 4. Từ năm 1946, tôi tham gia chế tạo thuốc nổ, nhồi lựu đạn và làm mìn nổ chậm cho Quân giới Việt Nam.
Lý giải cho việc một cô gái vừa rời ghế nhà trường lại dấn thân vào công việc nguy hiểm này, cần phải trở lại bối cảnh những năm đầu kháng chiến. Vũ khí lúc bấy giờ chủ yếu là súng ống thông thường, thu được từ quân Nhật và Pháp. Khi có thông báo cần học sinh, sinh viên biết tiếng Pháp xung phong vào Bộ Quốc phòng để làm vũ khí, tôi và hơn 20 bạn đã tình nguyện ghi tên, dù chưa hình dung hết những hiểm nguy đang chờ đợi.
Tôi nhớ mãi buổi gặp gỡ đầu tiên với người thầy dạy làm vũ khí tại chiến khu Việt Bắc. Anh Thúy Liễu, một trí thức tốt nghiệp cử nhân khoa học, đang mở một cuốn sách về chế tạo thuốc nổ. Anh vừa nhìn sách, vừa giảng giải bằng tiếng Pháp cách chế tạo thuốc nổ Fulminate. Bất ngờ, hai vị khách bước vào. Một cán bộ Bộ Quốc phòng giới thiệu: “Đây là anh Trần Đại Nghĩa, một kỹ sư đã tình nguyện theo Bác Hồ từ Pháp về năm 1946. Anh Nghĩa sẽ trực tiếp hướng dẫn chúng ta làm vũ khí chống giặc Pháp.”
Từ lời giới thiệu giản dị ấy, trong suốt hàng chục năm sau, kỹ sư Trần Đại Nghĩa đã dìu dắt chúng tôi pha chế thuốc nổ, chế tạo súng đại bác không giật SKZ chống tăng, và làm mìn nổ chậm.
Những kỷ niệm ấy vẫn còn vẹn nguyên dù gần một thế kỷ đã trôi qua. Tấm gương của một trí thức từ bỏ cuộc sống tiện nghi với mức lương cao để về xây dựng nền quân giới quốc phòng là nguồn động lực để chúng tôi noi theo.
Năm 1967 đánh dấu một bước ngoặt lớn trong cuộc đời tôi. Bác Hồ giao nhiệm vụ vào Vĩnh Linh (Quảng Trị) cùng đoàn làm phim của hai nhà điện ảnh cách mạng, những người bạn của Bác – ông Joris Ivens và bà Marceline Loridan. Tôi vừa chăm sóc sức khỏe cho đoàn, vừa làm phiên dịch tiếng Pháp.
Bộ phim tài liệu “Vĩ tuyến 17 – Chiến tranh nhân dân” ra đời sau hai tháng trời lăn lộn, ngày đội bom đạn để quay phim, đêm xuống địa đạo tìm giấc ngủ chập chờn. Những nguy hiểm trong những ngày ấy khó có thể kể xiết: hai lần ông Ivens và tôi bị bom vùi, một quay phim bị trúng bom bi vào cổ chỉ cách động mạch chủ 2cm, bà Marceline phải vào trạm quân y dã chiến vì tai nạn xe. Chúng tôi cũng chứng kiến sự hy sinh dũng cảm, sự kiên cường phi thường của người dân Vĩnh Linh để trồng lúa, dựng lại nhà cửa và vượt qua những mất mát đau thương.
Một đêm, sau một ngày quay phim cột cờ Vĩnh Linh dưới tiếng bom đạn, tôi nằm lịm đi thì nghe tiếng gọi từ cuối hầm: “Đoàn phim có ai là bác sĩ không? Cứu, cứu chúng tôi với!”
Tôi choàng dậy, vội vã đeo túi cấp cứu. Anh Chơn, kỹ sư thu thanh, ôm chiếc máy Nagra. Hai chúng tôi mò mẫm theo ánh đuốc đến một căn hầm chật hẹp, nơi một người phụ nữ đang quằn quại. Chị sắp sinh con đầu lòng nhưng quá sợ hãi. Sau một hồi cố gắng, tôi đã có thể đỡ em bé chào đời ngay trong địa đạo. Tiếng khóc trẻ thơ vang lên mạnh mẽ. Tôi trao bé cho người cha sau khi cắt rốn và lau mình. Cả căn hầm tràn ngập tiếng khóc hạnh phúc.
Khi chúng tôi trở về hầm, cả đoàn làm phim vẫn chưa ai ngủ, tất cả đều chờ đợi. Quá mệt mỏi, tôi chỉ nói vắn tắt: “Ça va… Ça va” (Ổn rồi… Ổn rồi) rồi ngả xuống. Bỗng trong căn hầm vang lên hai tiếng khóc: tiếng khóc chào đời và tiếng khóc nức nở của người cha trẻ. Anh Chơn đã thu lại khoảnh khắc ấy bằng chiếc máy Nagra.
Ông Ivens đến bên tôi, đặt tay lên vai và nói: “Nghề phóng viên chiến trường đã cho chúng ta những giây phút đặc biệt, những giây phút chứng minh sự sống có thể chiến thắng cái chết.”
Câu nói ấy đã thay đổi cuộc đời tôi, giúp tôi can đảm từ bỏ ngành y ở tuổi 37 để trở thành phóng viên chiến trường. Quan trọng hơn cả, tôi được sống theo đúng lựa chọn của mình.

Đêm tiễn hai vợ chồng nhà điện ảnh cách mạng cùng những thước phim quay trong bom đạn Vĩnh Linh, Bác Hồ dặn dò: “Rồi đây, những thước phim từ lòng đất Vĩnh Linh sẽ đi thẳng vào lòng những người dân phản chiến ở Mỹ.”
Năm ấy, tôi chưa hiểu hết ý nghĩa sâu xa trong lời dặn của Bác.
Năm 1989, tôi sang Paris thăm nhà của vợ chồng Ivens. Joris vừa qua đời cách đó 10 ngày, tôi không còn cơ hội ôm người thầy của mình. Marceline đưa cho tôi xem một bức thư đã ố vàng.
Bức thư của một nhà sản xuất phim ở Washington D.C., viết năm 1968: “Thưa ông Ivens, tôi đã xem bộ phim về chiến tranh Việt Nam mà ông thực hiện ở Vĩnh Linh. Bộ phim khiến tôi ngỡ ngàng. Nếu người dân Mỹ được xem bộ phim này, họ sẽ biết rằng không thể nào chiến thắng trong một cuộc chiến mà toàn dân quyết tâm chiến đấu. Nhưng tôi biết chắc chắn không có rạp nào lớn ở Mỹ dám mua bộ phim này. Tôi sẽ lỗ nặng, sẽ không thể bán được phim. Vì vậy, rất xin lỗi ông và cũng rất khâm phục ông.”
Marceline kể thêm, họ đã tìm mọi cách đưa bộ phim đến các trường đại học, các trung tâm phản chiến, các câu lạc bộ và trung tâm văn hóa ở Mỹ. Những đóng góp của bộ phim vào phong trào phản chiến đã mang lại nhiều kết quả tích cực.
Lúc bấy giờ, tôi mới hiểu hết lời dặn của Bác Hồ.
Marceline còn cho tôi xem một tờ giấy mỏng và nói: “Ivens đã mất, tôi mới dám đưa cho Phượng xem.” Đó là tờ giấy cầm cố ngôi nhà của hai vợ chồng cho ngân hàng Paris để lấy tiền sang Việt Nam làm phim. Ivens đã dặn vợ: “Chúng ta sang một nước đang có chiến tranh, đừng khiến họ phải tốn thêm đồng nào cho ta cả. Và cũng đừng cho họ biết về việc cầm cố này.”
May mắn thay, sau đó bộ phim “Vĩ tuyến 17 – Chiến tranh nhân dân” đã được nhiều tổ chức phản chiến mua để trình chiếu. Ngôi nhà vẫn thuộc về hai ông bà cho đến tận ngày nay.
Năm 1989 cũng là lần đầu tiên tôi trở lại Pháp sau khi nghỉ hưu. Những người bạn cũ thời chiến tranh từng sang Việt Nam làm việc đón tiếp tôi nồng nhiệt. Trước khi trở về Việt Nam, tôi nhận được rất nhiều lời chia sẻ: “Bạn sẽ sống ra sao trong đất nước hậu chiến, bao nhiêu trẻ mồ côi, bao nhiêu người vô gia cư, bao nhiêu người thất nghiệp…”
Ban đầu, tôi thông cảm với sự thương hại của bạn bè. Nhưng nghe mãi những lời thương xót ấy, tôi tự nhiên phản ứng lại. Tôi thầm nghĩ: “Việt Nam có một nền văn hóa lâu đời, sao không thấy ai nhắc đến?” Tôi nảy ra ý tưởng sẽ mở một phòng tranh khi trở về Việt Nam, cố gắng đưa các họa sĩ ra nước ngoài để giới thiệu một phần nhỏ bé về nền mỹ thuật Việt Nam.
Từ đó, tôi về TP.HCM và mở phòng tranh mang tên Lotus (Hoa sen). Tôi say mê với công việc mới này và duy trì phòng tranh trong hơn 30 năm.
Có người hỏi tôi: “Bà nghĩ gì về 80 năm kỷ niệm ngày Quốc khánh Việt Nam?”
Cuộc đời khá dài của tôi đã cho phép tôi chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử trọng đại:
Năm 16 tuổi, tôi trực tiếp chứng kiến lễ thoái vị của vua Bảo Đại, đánh dấu sự chấm dứt của chế độ phong kiến và mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc.
Năm 25 tuổi, sau 9 năm ở chiến khu Việt Bắc, ngày 10 tháng 10 năm 1954, tôi hòa mình vào dòng người hân hoan chào đón Thủ đô giải phóng.
Năm 46 tuổi, tôi tham gia đoàn phim quay chiến dịch Hồ Chí Minh từ Huế vào Sài Gòn, ghi lại cuộc họp báo lịch sử tại Dinh Độc Lập. Những chiếc xe tăng từ khắp nơi trở về tập trung quanh bồn phun nước trong dinh, bụi chiến tranh còn chưa kịp rửa sạch.
Nửa thế kỷ trước, khi quay những thước phim đầu tiên về một đất nước hòa bình ở Quảng Nam, Đà Nẵng, nhìn những con đường chằng chịt dây thép gai, những cánh đồng khô cằn ở Điện Ngọc, Điện Bàn, những mái nhà tôn nóng hầm hập, tôi đã tự hỏi: “Rồi đây người dân sẽ sống ra sao?”
Năm 93 tuổi, tôi thực hiện một chuyến đi xuyên Việt bằng ô tô. Những cây cầu phà tạm bợ thời chiến tranh đã được thay thế bằng những cây cầu vững chãi. Người dân vùng biển Quảng Bình ngày nào còn sống trong bom đạn giờ đã thong dong đưa gia đình đến bãi biển Nhật Lệ tận hưởng hải sản tươi ngon. Những vườn rau xanh tốt, những ngôi nhà mái ngói đầy đủ tiện nghi ở Điện Ngọc, Điện Bàn là câu trả lời rõ ràng nhất cho những băn khoăn của tôi năm xưa.
Năm nay, 96 tuổi, tôi xem qua màn ảnh nhỏ cảnh Thủ đô tưng bừng náo nhiệt chuẩn bị cho ngày lễ lớn 2 tháng 9 năm 2025.
Nhân ngày vui lịch sử này, tôi muốn gửi một lời tâm sự: Các bạn ơi, không ai có được hai cuộc đời. Vì vậy, hãy trân trọng và sống sao cho thật xứng đáng với ân huệ này.
Admin
Nguồn: VnExpress