Những ngày qua, bộ phim “Mưa đỏ” đã chạm đến trái tim đông đảo khán giả, khơi gợi nhiều cảm xúc sâu lắng. Trên mạng xã hội, nhiều người chia sẻ những cảm nhận sau khi xem phim, đồng thời nhắc đến bài thơ “Lời người bên sông” của nhà thơ Lê Bá Dương. Bài thơ, khắc trên bia đá tại bến thả hoa bờ bắc và nam sông Thạch Hãn, là những suy tư của người lính trở lại chiến trường xưa, tưởng nhớ đồng đội đã hy sinh tại Thành cổ Quảng Trị:
“Đò lên Thạch Hãn ơi… chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Có tuổi hai mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ, mãi mãi ngàn năm”.
Bài thơ “Lời người bên sông” ra đời vào chiều 27/7/1987, sau khi nhà thơ Lê Bá Dương trở lại chiến trường xưa, làm lễ tưởng niệm cho đồng đội. Ngồi một mình bên bờ Thạch Hãn, nhìn những con thuyền ngược dòng lên chợ Quảng Trị, những mái chèo khuấy động mặt nước, ông nghĩ đến những người bạn, những chiến sĩ đã vĩnh viễn nằm lại nơi đáy sông. Bài thơ như một lời thỉnh cầu, nhắn nhủ mọi người giữa “phiên chợ cuộc đời” hối hả.
Thời gian trôi đi, nhà thơ đã có những chỉnh sửa để hoàn thiện bài thơ. Năm 1990, nhà văn Đỗ Kim Cuông nhận xét: “Bài thơ rất cảm động, nhưng xót xa quá. Và về câu chữ, từ ‘xin’ cứ lặp đi lặp lại nhiều lần có nên không?”. Sau khi suy ngẫm, tác giả đã thay chữ “xin” trong câu đầu tiên thành “ơi…” – một thán từ gọi đò theo phương ngữ Quảng Trị. Cách gọi “ơi đò…”, “bớ đò…” hay “đò ơ…” không làm mất đi ý nghĩa thỉnh cầu của từ “xin”, mà còn tạo nên âm hưởng vọng vang trong không gian linh thiêng của dòng Thạch Hãn. Riêng hai câu thơ sau, ông viết lại: “Có tuổi hai mươi thành sóng nước/ Vỗ yên bờ, mãi mãi ngàn năm”.
Bài thơ được lan truyền rộng rãi và xuất hiện nhiều dị bản. Chẳng hạn, ở câu đầu, nhiều người nhầm lẫn từ “lên” thành “xuôi”. Trong khi đó, tác giả muốn dùng từ “lên” để nhấn mạnh sự vất vả của người chèo thuyền ngược dòng nước.
Với cụm từ “bờ mãi mãi” ở câu thơ cuối, một số dị bản viết “bờ bãi mãi”. Tác giả giải thích rằng, dòng sông, “sóng nước” tuổi hai mươi không còn là một thực thể hữu hình như “bờ bãi”, mà đã hóa thành dòng chảy tâm thức. Do đó, cần giữ nguyên vẹn câu chữ chính để thể hiện ý đồ biến cái hữu hạn thành vô hạn, tượng trưng cho sự hy sinh của các anh hùng, hòa vào dòng Thạch Hãn.
Tuy nhiên, theo nhà thơ, dù đọc bản chính hay bất kỳ dị bản nào, người đọc vẫn có thể cảm nhận trọn vẹn tình cảm và tinh thần mà ông gửi gắm. Vì vậy, ông không quá câu nệ vào việc phân tích, mổ xẻ câu chữ một cách cứng nhắc. “Tôi vẫn coi bài thơ là tiếng lòng của mọi người, được viết bằng xương máu của đồng bào, đồng đội. Ở đó, ta thấy được sự tri ân của thế hệ sống trong thời bình, nhưng vẫn day dứt khi nhớ về những chiến sĩ đã dâng hiến trọn tuổi thanh xuân cho đất nước”, ông chia sẻ.

Gần 40 năm qua, “Lời người bên sông” đã trở thành một trong những bài thơ bất hủ về cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị, là nguồn cảm hứng cho nhiều nhạc sĩ sáng tác, như “Thiên hùng ca bất tử” (Kiên Ninh) và “Đò lên Thạch Hãn” (Trần Bắc Hải). Mỗi dịp lễ lớn của đất nước, bài thơ lại được nhắc nhớ và vang lên trong các sự kiện.

Bên cạnh “Lời người bên sông”, Lê Bá Dương còn sáng tác nhiều bài thơ về đề tài người lính và đồng đội năm xưa. Nhớ lại những tháng ngày cùng đồng đội kề vai chiến đấu, ông viết bài thơ chưa đặt tên:
“Như thuở nào ăn trong đạn, ngủ trong bom
Như thuở nào nhường bạn cuốn băng
Giấu mình vừa trúng đạn
Như thuở nào xếp đá
Chôn đồng đội tôi bên suối cạn
Để cuối chặng đời, lòng vẫn ngoảnh lại phía ngày xưa”.
Bài thơ gợi lại những kỷ niệm sâu sắc về tình đồng đội trong chiến tranh. Ông kể về người đồng đội Phan Ngọc Lễ bị thương nặng, vết thương rộng đến nỗi một cuộn băng không đủ để băng bó. Dù bản thân cũng bị thương, ông đã giấu kín cơn đau, nhường cuộn băng duy nhất cho bạn. Khi anh Lễ nói lời cuối và khuyên ông tự băng bó, ông đã nói dối rằng máu trên người chỉ là do bạn bắn lên. Ông ngậm ngùi kể rằng, thời đó, người ta giành cái chết để nhường sự sống cho đồng đội. Vì vậy, hôm nay, ông viết tiếp những câu chuyện còn dang dở của họ.

Trong những ngày này, nhà thơ Lê Bá Dương chia sẻ niềm vui đón Tết Độc lập cùng toàn dân tộc. Tuy nhiên, ông không khỏi chạnh lòng khi nghĩ về những đồng đội đã ngã xuống, không được chứng kiến ngày đất nước hòa bình, thống nhất. Nỗi niềm ấy luôn theo ông từ ngày trở về, khi thiếu vắng những người từng “vào sinh ra tử”.
Ở tuổi ngoài 70, nhà thơ chỉ mong có sức khỏe để tiếp tục hành trình tìm kiếm dấu tích của những người đã nằm lại trên khắp các chiến trường. Sau chiến thắng, mỗi năm, ông đều đặn đến thăm Thành cổ Quảng Trị, thực hiện lời hứa đưa đồng đội trở về quê mẹ. Năm nay, ông và các cựu chiến binh đã tìm được 12 hài cốt liệt sĩ.
Lê Bá Dương sinh ra tại Nghệ An. Ông đã khai tăng ba tuổi để được nhập ngũ sớm, khi vừa tròn 15 (năm 1968), và được biên chế về Đại đội 3, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 27 mặt trận B5, tham gia chiến đấu tại mặt trận Đường 9 Quảng Trị. Ông lập công từ những trận đánh đầu tiên và trở thành Dũng sĩ diệt Mỹ cấp II khi mới 15 tuổi 49 ngày. Ngoài ra, ông còn bảy lần được trao tặng danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ”, “Dũng sĩ diệt cơ giới”, “Dũng sĩ diệt máy bay” từ cấp III đến cấp ưu tú.
Những thành tích của ông đã khơi dậy phong trào “Xung kích như Lê Bá Dương”, “Chốt chặt như Lê Bá Dương” trên mặt trận B5 Đường 9. Sau khi đất nước thống nhất, ông trở thành phóng viên, nhiếp ảnh gia, tiếp tục cống hiến cho xã hội bằng tài năng và nhiệt huyết của mình.
Admin
Nguồn: VnExpress