Tại xã Phúc Thịnh, huyện Đông Anh (trước đây là xã Nam Hồng), bà Nguyễn Thị Lai, 87 tuổi, hồi tưởng về những ngày tháng gian khổ khi cả làng đồng lòng đào địa đạo. “Để có được 11 km địa đạo này, cả làng tôi đã phải dùng dao, xẻng đào liên tục trong suốt ba tháng,” bà kể.
Bà Lai không chỉ là một nhân chứng lịch sử mà còn là một trong những người đã dành gần 80 năm để gìn giữ và bảo vệ hệ thống địa đạo này. Ngôi nhà cấp bốn rộng hơn 30 m2 của bà hiện là một trong hai cửa hầm địa đạo còn sót lại đến ngày nay. Cửa hầm còn lại nằm trong khuôn viên nhà ông Phạm Văn Dộc, cùng xã.
Vào cuối năm 1946, huyện Đông Anh được chọn làm căn cứ an toàn cho các cơ quan đầu não của Trung ương trước sự càn quét ác liệt của thực dân Pháp. Xã Nam Hồng, nơi có nhiều cán bộ cấp cao hoạt động, trở thành mục tiêu trọng điểm. Tháng 1/1947, Đội du kích Nam Hồng ra đời với quyết tâm “bám đất, giữ làng”. Từ đó, ý tưởng đào một hệ thống địa đạo liên hoàn để phục vụ kháng chiến lâu dài đã được chính quyền và người dân đồng lòng thực hiện.
Bà Lai nhớ lại: “Thanh niên trai tráng đã ra trận, những người đào hầm chủ yếu là phụ nữ trên 40 tuổi. Chúng tôi chia thành nhiều tổ, người cuốc, người xúc, người gánh đất. Mỗi ngày, một tổ phải đào được 10 mét hầm.”
Những công cụ thô sơ như cuốc cán ngắn khoảng 40 cm và búa chim là những gì họ có trong tay. Công việc đào hầm được giữ bí mật tuyệt đối. Đất đào lên được cho vào bị cói, khăn vuông rồi mang đi đổ xuống sông hoặc trộn lẫn với đất vườn để tránh bị địch phát hiện.
Sau ba tháng miệt mài, gần 11 km địa đạo xuyên qua các thôn Tằng My, Đoài, Đìa, Vệ của xã Nam Hồng đã hoàn thành, thông sang cả xã Bắc Hồng và Nguyên Khê. Địa đạo được thiết kế theo cấu trúc hình xương cá, với một trục chính kết nối các nhánh hầm chạy về từng gia đình, cùng với 465 hầm bí mật và hơn 2.600 hố chiến đấu.
Một trong hai cửa hầm còn tồn tại đến ngày nay nằm ngay dưới gầm giường trong gian nhà chính của bà Lai. Cửa hầm được ngụy trang bằng một miếng gỗ phủ tre rồi đắp đất cho bằng với nền nhà. Lối vào hẹp, chỉ vừa lọt hai vai, nhưng càng vào sâu càng rộng và cao khoảng 60 cm, đủ để di chuyển dễ dàng.
Khi địa đạo hoàn thành, nhiệm vụ bảo vệ cán bộ được đặt lên hàng đầu. Mỗi khi có báo động, người dân sơ tán ra các hầm hố tránh bom ngoài đồng. “Nhân dân không ai xuống địa đạo, vì đó là nơi dành cho bộ đội và để tránh bị lộ,” bà Lai giải thích.
Sự hy sinh của người dân Nam Hồng để giữ bí mật về hệ thống địa đạo là vô cùng lớn lao. Dù địch nghi ngờ và liên tục khủng bố, tra tấn, thậm chí chặt đầu một người dân để răn đe, chúng vẫn không thể tìm ra địa đạo. Hai du kích bị bắt khi vừa ra khỏi hầm, dù bị tra tấn dã man vẫn quyết không khai và cuối cùng bị treo cổ ngay trong vườn nhà bà Lai.
“Ai mà chịu nổi cảnh người thân bị giết, nhưng vì cách mạng, mọi người phải cắn răng chịu đựng,” bà Lai nghẹn ngào nói.
Trong giai đoạn 1947-1950, giặc Pháp cướp bóc, ném bom khiến đồng ruộng bị bỏ hoang, người dân đói triền miên nhưng vẫn nhường cơm cho cán bộ. Cơm nấu xong được treo ở các bụi tre gần cửa hầm để đêm xuống bộ đội đến lấy.
Du kích và người dân xã Nam Hồng đã chiến đấu 308 trận, đồng thời hứng chịu 244 đợt càn quét và hơn 2.000 nóc nhà bị đốt phá.
Tháng 1/1996, xã Nam Hồng vinh dự được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Địa đạo Nam Hồng được công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia, hiện còn khoảng 200 m được bảo tồn, trở thành chứng nhân cho một thời kỳ lịch sử hào hùng.
Cách Nam Hồng gần 40 km, làng kháng chiến Tam Hưng cũng xây dựng một “pháo đài ngầm”. Ban đầu, địa đạo được sử dụng để nuôi giấu cán bộ, cất trữ lương thực, sau đó trở thành công sự chiến đấu, chặn đứng các cuộc càn quét của giặc.

Ông Dương Văn Giang, 97 tuổi, một trong những du kích cốt cán năm xưa, giải thích tầm quan trọng của làng: “Giữ được Tam Hưng là giữ được hành lang an toàn cho căn cứ của tỉnh Hà Đông. Mất Tam Hưng, địch có thể uy hiếp cả một vùng rộng lớn, nên chúng tôi quyết giữ bằng mọi giá.”
Từ năm 1948, quân dân Tam Hưng thực hiện chủ trương “mỗi làng một pháo đài”. Trước khi đào địa đạo, cả làng cùng nhau xây dựng một hệ thống phòng thủ trên mặt đất. Các bụi tre gai dày đặc quanh làng được đan, kết lại với nhau thành những bức tường thành tự nhiên. Những con đường độc đạo vào làng bị chặn lại, thay vào đó là một mạng lưới giao thông hào chằng chịt, các ụ súng và hố chông được ngụy trang tinh vi.
![[Caption] Ảnh: Nga Thanh](https://ai24hexpress.com/wp-content/uploads/2025/09/z6910699565359-da1cf63ff826e97-5730-4814-1755265350.jpg)
Cả làng biến thành một tổ chức chiến đấu, mỗi người một nhiệm vụ như cảnh giới, lo cơm nước, vót chông, đào hầm. Một thế trận toàn dân đã được giăng ra, sẵn sàng nghênh chiến.
Khác với Nam Hồng, đất ở Tam Hưng là loại sét pha sỏi, cứng và rất khó đào. Dụng cụ vẫn thô sơ, chỉ gồm những chiếc cuốc cán ngắn, búa chim và xẻng. Quân dân chia thành 6 tổ, nhận nhiệm vụ đào các đường hầm nối liền các thôn. Hầm nằm dưới mặt đất khoảng 1,2 m, cao 1,5-2 m. “Chúng tôi cứ ngồi xổm mà đào, mệt thì đổi ca. Càng đào càng hăng, chỉ mong nhanh chóng hoàn thành để bộ đội có nơi trú ẩn,” ông Giang nhớ lại.
Để đảm bảo bí mật, đất đào lên được cho vào thúng, mẹt, đợi đêm xuống chuyển ra đồng. “Chúng tôi không đổ đất xuống ao vì dễ bị phát hiện. Đất được gánh tới các thửa ruộng ở xa, san thành lớp thật mỏng để không ai nhận ra,” ông Giang kể.
Địa đạo Tam Hưng không đào thẳng mà ngoằn ngoèo, gấp khúc, nhằm hạn chế tầm sát thương của lựu đạn và góc bắn của địch nếu chúng lọt vào. Cứ vài mét lại có một ngách rẽ bất ngờ hoặc một “nút thắt cổ chai” – đoạn hầm bị thu hẹp đột ngột, chỉ đủ một người gầy lách qua. Thiết kế này nhằm chặn đứng những lính Pháp to lớn, giúp du kích có thời gian rút lui an toàn. Lỗ thông hơi được ngụy trang khéo léo thành các ụ mối, gò đất hay cửa bếp trong các gia đình, khói bếp tỏa ra hòa cùng không khí khiến địch không thể nghi ngờ.
Trong hơn một năm, quân dân Tam Hưng đã tạo nên một công trình phòng thủ kiên cố gồm gần 8 km rào tre, hơn 400 hầm bí mật và gần 5 km đường hầm.

Hệ thống này biến Tam Hưng thành một pháo đài bất khả xâm phạm, là “xương sống của thế trận chiến tranh du kích,” nơi các đội cảm tử quân “xuất quỷ nhập thần” để tập kích đồn bốt địch rồi biến mất không dấu vết.
Ông Giang kể rằng có những đợt lính Pháp chiếm đóng làng 2-3 ngày, đi lại trên mặt đất mà không hề hay biết dân và du kích đang sinh hoạt ngay dưới chân mình. Đỉnh cao là trận chống càn ngày 19/9/1949, khi lực lượng du kích Tam Hưng đã bẻ gãy nhiều đợt tấn công của gần 1.000 lính Pháp có pháo binh yểm trợ. Chiến thắng này đã khiến Tỉnh ủy Hà Đông phát động toàn tỉnh học tập mô hình “Làng kháng chiến Tam Hưng”.
Để giữ bí mật tuyệt đối cho căn cứ, nhiều người đã chấp nhận hy sinh. Cho đến ngày miền Bắc được giải phóng, địa đạo Tam Hưng chưa một lần bị lộ.
Tháng 12/1949, Mặt trận Liên Việt đã tặng xã 4 chữ vàng “Tam Hưng anh dũng”. Tháng 12/1995, xã vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Ở tuổi 97, ông Dương Văn Giang, một trong những người đã làm nên địa đạo huyền thoại, đúc kết: “Đã là người dân Việt Nam thì không sợ gian khổ. Sức mạnh của nhân dân chính là yếu tố then chốt làm nên chiến thắng lịch sử.”
Admin
Nguồn: VnExpress