Trong không khí hân hoan kỷ niệm 80 năm Quốc khánh, ông Alain Tấn Huỳnh đã trở về Việt Nam vào cuối tháng 8 để thăm con trai. Chuyến đi này còn bao gồm việc ghé thăm nhà hàng Phở 2000 và hai khách sạn trên đường Lê Thánh Tôn, thuộc quận 1. Ngồi tại sảnh khách sạn Avanti, ngắm nhìn dòng khách quốc tế tấp nập ra vào, ký ức về những ngày đầu sơ khai của ngành du lịch Việt Nam, cách đây 36 năm, ùa về trong tâm trí ông.
Tháng 4/1989, Việt Nam vừa bước sang năm thứ ba của thời kỳ Đổi mới, ông Alain Tấn Huynh (tên Việt là Huỳnh Trung Tấn), một Việt kiều Mỹ, đã trở về quê hương sau gần hai thập kỷ xa cách. Chuyến đi ban đầu chỉ với mong muốn “được ra Hà Nội một lần”, nhưng lại trở thành một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời ông.
Vào năm 1989, đất nước còn gặp nhiều khó khăn do lệnh cấm vận từ Mỹ, thủ tục đi lại phức tạp, kinh tế còn thiếu thốn và luật đầu tư nước ngoài chưa hoàn thiện. Ông Tấn, với hộ chiếu Mỹ, không được đóng dấu trực tiếp mà phải xin visa rời tại Thái Lan và kẹp vào hộ chiếu.
Ông Huỳnh nhớ lại: “Thái Lan hưởng lợi rất nhiều từ lượng khách Việt kiều về Việt Nam vào thời điểm đó”. Hầu hết các đoàn đều phải quá cảnh ở Bangkok hai đêm, chi tiêu cho ăn uống và lưu trú tại đây, trong khi Việt Nam còn đang chập chững những bước đi đầu tiên trong lĩnh vực du lịch và dịch vụ.
Thời điểm đó, kiều bào muốn về nước phải tham gia các đoàn du lịch có kiểm soát và xin phép khi di chuyển. Để đi từ tỉnh này sang tỉnh khác, đoàn phải có giấy giới thiệu, nếu không sẽ gặp khó khăn trong việc đặt khách sạn hoặc di chuyển.
Khi đến Hà Nội cùng đoàn khách Việt kiều, việc đầu tiên ông Tấn làm là tìm một bát phở, nhưng lúc đó phở gà phổ biến hơn. Các quán phở bò rất hiếm vì trâu bò vẫn được xem là sức kéo quan trọng trong nông nghiệp. Cà phê cũng khó tìm, thường chỉ có trong khách sạn, còn bên ngoài chủ yếu bán trà đá và kẹo lạc.
Ấn tượng sâu sắc nhất với ông Tấn không chỉ đến từ ẩm thực mà còn từ con người. Tại khách sạn Hòa Bình, khi ông gọi nhiều món, nhân viên đã khuyên ông nên gọi ít một, ăn hết rồi gọi thêm để tránh lãng phí. Khi ông để tiền tip, nhân viên đã trả lại và nói rằng ông bỏ quên.

Ông kể: “Lúc đó tôi rất ngạc nhiên, nhưng tôi nhận ra đó là cái tâm trong sáng của người làm dịch vụ, không đặt doanh thu lên hàng đầu, một vẻ đẹp rất Việt Nam”.

Bước ngoặt trong sự nghiệp của ông xảy ra vào ngày thứ hai ở Hà Nội. Ông được hướng dẫn viên dẫn đến Bộ Ngoại giao để gặp Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch và Thứ trưởng Vũ Khoan. Các vị lãnh đạo đã trò chuyện thân tình, mời trà Thái Nguyên, bánh kẹo và thẳng thắn đề nghị ông đóng góp cho quê hương.
Ông Tấn vẫn nhớ như in lời của Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch: “Các anh thành đạt ở Mỹ, nhưng Việt Nam vẫn là quê hương, đất nước còn nghèo, cần các anh góp sức”.
Bộ trưởng chỉ vào ông Tấn và nói rằng ông có chuyên môn trong ngành dịch vụ nhà hàng, từng mở trường đào tạo nhân sự và chuỗi nhà hàng ở Mỹ, có thể phối hợp đào tạo nhân lực để chuẩn bị đón khách nước ngoài khi Việt Nam mở cửa.
Thời điểm đó, ngành du lịch nội địa chỉ quen đón khách từ các nước xã hội chủ nghĩa theo nghị định thư, chưa có kinh nghiệm tiếp xúc với khách du lịch mang lại ngoại tệ. Năm Du lịch quốc gia 1991 đang được chuẩn bị và Việt Nam cần sẵn sàng.
Từ Hà Nội vào Đà Nẵng rồi trở lại TP HCM, ông Tấn tiếp tục được Tổng cục Du lịch khu vực phía Nam mời làm cố vấn và tham gia vào dự án nhà hàng liên doanh đầu tiên tại TP HCM. Dịch vụ ẩm thực quốc tế ở TP HCM khi đó gần như chưa phát triển, chỉ có một nhà hàng Âu duy nhất trên đường Trần Hưng Đạo, gần khu Bùi Viện ngày nay, nơi hầu hết khách nước ngoài đều lui tới.
Mặc dù ban đầu không có ý định đầu tư, nhưng lời mời và tình cảm quê hương đã khiến ông Tấn suy nghĩ. Theo đề nghị của Tổng cục Du lịch, ông Tấn nhận lại một căn nhà cũ trên đường Ký Con, quận 1, để cải tạo và mở nhà hàng. Cơ sở hạ tầng lúc đó còn nhiều thiếu thốn, nhà phố trên đường Ký Con xuống cấp và thường xuyên bị cắt điện 4-5 ngày mỗi tuần.
Ông Tấn chia sẻ: “Nghe Tổng cục Du lịch cam kết sẽ có khách và ưu tiên dẫn đoàn đến nhà hàng, tôi thấy cơ hội mở ra trước mắt”. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất lúc đó là tình hình cấm vận căng thẳng, khiến việc đầu tư chính thức gần như không thể thực hiện được.
Sau ba tháng ở Mỹ, nỗi nhớ quê hương và mong muốn đóng góp cho đất nước đã thôi thúc ông trở lại Việt Nam. Sau nhiều lần bàn bạc với vợ, tháng 12/1989, hai vợ chồng ông quyết định quay trở lại, mang theo kinh nghiệm và quy trình đào tạo dịch vụ nhà hàng, khách sạn từ Mỹ để áp dụng tại quê nhà.
Sau khi thu xếp công việc gia đình, ông Tấn cùng với đối tác đại diện Tổng cục Du lịch Việt Nam ký hợp đồng liên doanh dưới tên người anh họ, còn ông Tấn là người làm chứng. Một bên có nhà và cơ chế kinh doanh, đón khách nước ngoài, một bên đầu tư và đào tạo để có một nhà hàng Pháp đúng chuẩn. Cùng tháng đó, nhà hàng Le Mekong chính thức khai trương, mở ra một chương mới cho ẩm thực cao cấp tại TP HCM.
Ngôi nhà phố được cải tạo với tầng trệt là quán bar, tầng một là phòng ăn, phía sau là bếp và trên cùng là phòng tiệc. Vợ chồng ông Tấn đã chọn căn phòng vỏn vẹn 13 m2 trên sân thượng làm nơi ở.
Thời gian đầu, nhà hàng gặp vô vàn khó khăn. Chén đĩa, muỗng nĩa phải mua từ Thái Lan. Rượu ngoại và nguyên liệu Âu phải tìm kiếm khắp nơi. Không có thiết bị bếp hiện đại, hai vợ chồng phải tự chế tạo lò nướng than, vừa quạt vừa thổi lửa.
Sau khi nhà hàng đi vào ổn định, vợ chồng ông Tấn sang Thái Lan kinh doanh để xoay vòng vốn vì “nhà hàng cần 1-2 năm mới có lãi”. Khó khăn vẫn chưa dừng lại. Vài tháng sau khi khai trương, Le Mekong liên tục thua lỗ, thất thoát hàng chục nghìn USD do khách chủ yếu là các đoàn Đông Âu theo nghị định thư, không đủ khả năng chi trả.
Tháng 3/1990, vợ chồng ông Tấn quay lại TP HCM để trực tiếp quản lý và thống nhất rằng nếu sau sáu tháng vẫn lỗ thì sẽ đóng cửa. Chỉ hai tháng sau, nhà hàng bắt đầu có lãi, đúng vào thời điểm TP HCM đón làn sóng khách quốc tế, giới ngoại giao và nhà đầu tư, biến Le Mekong thành một điểm hẹn ẩm thực Pháp cao cấp của thành phố.
Một trong những vị khách đặc biệt của Le Mekong là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, sau chuyến công du Ấn Độ vào tháng 12/1989. Sự kiện này càng củng cố uy tín của Le Mekong như một địa chỉ ẩm thực cao cấp hàng đầu tại TP HCM vào thời điểm Việt Nam bắt đầu mở cửa hội nhập.
Thành công với Le Mekong, Saigontourist đã mời ông Tấn mở nhà hàng Vietnam House trên đường Đồng Khởi – Mạc Thị Bưởi, chuyên phục vụ ẩm thực thuần Việt trong một không gian sang trọng. Đây là dự án được Tổng cục Du lịch “đặt hàng” để chào đón Năm Du lịch quốc gia 1991.
Vietnam House là nhà hàng Việt cao cấp đầu tiên ở TP HCM, với nhân viên mặc áo dài truyền thống và biểu diễn nhạc sống vào cuối tuần. Tại đây, khái niệm “buffet gánh” ra đời: nhân viên ngồi trong nhà hàng cuốn chả giò, tráng bánh và bày món ăn trong đôi quang gánh để khách vừa xem vừa thưởng thức.
Ông Tấn cho biết: “Hình thức buffet gánh sau này được áp dụng rộng rãi trong nhiều nhà hàng, khách sạn ở TP HCM”.
Năm 1995, khi Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Mỹ, cựu Tổng thống Mỹ George Bush đã đến TP HCM và ghé thăm nhà hàng Vietnam House để thưởng thức ẩm thực và tiếp khách.

Sau những thành công liên tiếp với các nhà hàng cao cấp, ông Tấn tiếp tục thử sức với một nhà hàng chỉ phục vụ phở – món ăn vốn được coi là bình dân. Năm 2000, nhà hàng Phở 2000 ra mắt ở trung tâm quận 1. Tên tuổi của Phở 2000 vang xa khi Tổng thống Mỹ Bill Clinton ghé thăm và dùng bữa trong chuyến thăm Việt Nam đầu tiên vào tháng 11/2000. Sau 25 năm, nhà hàng phở này vẫn duy trì lượng khách ổn định, đặc biệt là khách du lịch nước ngoài.
Hơn ba thập kỷ đã trôi qua, ngành du lịch và ẩm thực Việt Nam đã thay đổi nhanh chóng. Ở tuổi 72, ông Alain Tấn Huỳnh đã nghỉ hưu tại Mỹ và giao lại cơ nghiệp cho con trai và con dâu điều hành hệ thống nhà hàng, khách sạn ở trung tâm TP HCM.
36 năm sau chuyến hồi hương đầu tiên, những dấu ấn tiên phong của ông Alain Tấn Huỳnh vẫn còn đó. Từ Le Mekong đến Phở 2000, ông đã góp phần đưa TP HCM lên bản đồ ẩm thực quốc tế, mở ra cánh cửa hội nhập cho ngành dịch vụ nhà hàng Việt Nam trong thời kỳ mở cửa du lịch.
Nhìn lại hành trình của mình, ông chia sẻ rằng bài học lớn nhất là luôn giữ vững triết lý “khách hàng là trung tâm”. Ông bộc bạch: “Từ những ngày đầu gian khó, không điện, không gas, không thiết bị, cho đến hôm nay, điều duy nhất không thay đổi là sự chân thành trong dịch vụ”.
Admin
Nguồn: VnExpress