Ngày 8/9 tới đây, Tòa án Nhân dân (TAND) TP Hà Nội sẽ mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án liên quan đến những sai phạm trong hoạt động đấu thầu tại Tập đoàn Thuận An. Vụ án gây thiệt hại ước tính 120 tỷ đồng, liên quan đến nhiều công trình ở các tỉnh thành như Tuyên Quang, Bắc Giang, Hà Nội và Quảng Ninh.

Trong số 29 bị cáo, có các cựu lãnh đạo chủ chốt của Tập đoàn Thuận An như ông Nguyễn Duy Hưng (cựu Chủ tịch HĐQT), ông Trần Quang Anh (cựu Tổng giám đốc), và ông Nguyễn Khắc Mẫn (cựu Phó tổng giám đốc).
Đáng chú ý, phiên tòa còn có sự xuất hiện của ông Phạm Thái Hà, cựu Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, người bị cáo buộc “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi”. Cùng với đó, ông Lê Ô Pích, cựu Phó chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang, cũng bị đưa ra xét xử về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”.
Phiên tòa dự kiến kéo dài nhiều ngày dưới sự điều khiển của thẩm phán Vũ Quang Huy, Phó chánh Tòa Hình sự TAND Hà Nội. Hơn 40 luật sư đã đăng ký tham gia bào chữa cho các bị cáo.
Hội đồng xét xử (HĐXX) cũng triệu tập 5 nguyên đơn dân sự, bao gồm Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng các công trình giao thông của các tỉnh liên quan và Cục Đường bộ Việt Nam (thuộc Bộ Xây dựng).
Vụ án này, tương tự như nhiều vụ án sai phạm đấu thầu khác, xoay quanh các hành vi lợi dụng quan hệ, “chạy chọt” để trúng thầu các dự án lớn dù không đủ năng lực. Tập đoàn Thuận An đã nhận được sự ưu ái đặc biệt tại nhiều địa phương, đổi lại là những khoản “chăm sóc” dành cho các “ân nhân”.
Theo cáo trạng của Viện Kiểm sát Nhân dân (VKSND) Tối cao, sai phạm đầu tiên được nhắc đến là tại dự án cầu Đồng Việt ở huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang vào năm 2021. Ông Nguyễn Duy Hưng đã nhờ ông Phạm Thái Hà tác động đến Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang để tạo điều kiện cho Thuận An tham gia dự án.

Trong một bữa tối với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Giang, ông Hà đã giới thiệu Thuận An là “đơn vị có năng lực” và nhờ lãnh đạo tỉnh quan tâm, xem xét. Vị Bí thư Tỉnh ủy sau đó đã tác động đến Giám đốc Ban Quản lý dự án để tạo điều kiện cho tập đoàn này. Ông Lê Ô Pích, Phó chủ tịch tỉnh Bắc Giang thời điểm đó, cũng bị cáo buộc đã tích cực chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ và tạo điều kiện cho Thuận An trúng thầu.

Sau khi “lo xong” các quan chức, Thuận An tìm đến Công ty Trung Chính, một đơn vị có năng lực thi công cầu treo công nghệ cao nhưng “không có quan hệ với tỉnh”, để liên danh dự thầu. Thuận An cũng mời thêm một số công ty khác làm thầu phụ và thống nhất sẽ là đầu mối làm việc với chủ đầu tư.
Đáng chú ý, Thuận An còn được cung cấp dự thảo Hồ sơ thiết kế kỹ thuật, dự toán để tham gia ý kiến điều chỉnh và dự thảo Hồ sơ mời thầu để thay đổi tiêu chí cho phù hợp với năng lực của mình. Mặc dù vậy, tập đoàn này vẫn phải lập khống các hợp đồng thi công để chứng minh năng lực.

Kết quả, liên danh của Thuận An là đơn vị duy nhất nộp hồ sơ và trúng thầu. Sau khi trúng thầu, Thuận An đã yêu cầu các công ty trong liên danh góp tiền “cơ chế” 3% giá trị trước thuế của gói thầu (hơn 1.100 tỷ đồng), tổng cộng 92 tỷ đồng. Giám đốc Ban quản lý dự án nhận riêng 11 tỷ đồng, cấp phó nhận 3,75 tỷ đồng, Phó chủ tịch tỉnh Pích nhận 4 tỷ đồng, và ông Phạm Thái Hà nhận 750 triệu đồng.
Tại dự án cao tốc Tuyên Quang – Phú Thọ, ông Nguyễn Duy Hưng tiếp tục nhờ ông Trần Viết Cương, Giám đốc Ban quản lý dự án tỉnh Tuyên Quang (cũ), để xin công trình. Ông Cương đồng ý và chỉ đạo cấp dưới sao chép toàn bộ file dự toán chi tiết gói thầu để đưa cho doanh nghiệp.
Thuận An sau đó bắt tay với một doanh nghiệp khác để thi công nếu trúng thầu, còn Thuận An chỉ cấp vật tư. Các bên cũng bàn bạc, thống nhất phương án bỏ giá để “diễn kịch” trong buổi đấu thầu. Hồ sơ của Thuận An thậm chí còn được nộp sau 17 ngày so với thời hạn quy định. Hai cán bộ tại Ban quản lý dự án đã bóc niêm phong, tráo hồ sơ để Thuận An đủ điều kiện trúng thầu.

Liên danh nhà thầu Thuận An – Hiệp Phú – Licogi 14 đã “biếu” ông Cương 12,5 tỷ đồng và cấp dưới của ông 160 triệu đồng.
Tương tự, tại dự án Cầu Vĩnh Tuy 2 ở Hà Nội, ông Hưng nhờ ông Phạm Thái Hà giới thiệu để gặp ông Phạm Hoàng Tuấn, Giám đốc Ban quản lý dự án Hà Nội, để xin dự án. Ông Tuấn đồng ý và còn đốc thúc cấp phó giúp đỡ Thuận An. Sau đó, ông Tuấn lại nhận lời một doanh nghiệp khác và cho phép liên danh với Thuận An.
Trần Quang Anh, Tổng giám đốc Thuận An, cùng Trịnh Văn Thanh, Phó phòng của Ban quản lý dự án Hà Nội, đã tập hợp hồ sơ dự thầu để Bùi Thanh Tuân (đơn vị tư vấn hồ sơ mời thầu và chấm thầu) xem xét và chấm thầu trước, chỉ ra những thiếu sót để Thuận An bổ sung. Nhờ đó, liên danh Thuận An – Cầu 7 Thăng Long trúng gói thầu 290 tỷ đồng.

Để cảm ơn, Thuận An đã chia tiền cho người của Ban quản lý dự án. Ông Hưng thu phí chênh lệch từ các đơn vị thi công và nhà cung cấp vật liệu tổng cộng 9,3 tỷ đồng, đưa vào hồ sơ nghiệm thu và được chủ đầu tư thanh toán.
Ngoài ra, Thuận An còn trúng thêm 2 dự án khác là Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 14E ở Quảng Nam (430 tỷ đồng) và gói thầu đường ven sông ở Quảng Ninh (706 tỷ đồng).
Tổng hợp sai phạm tại 5 tỉnh thành và bộ ngành, các bị cáo đã gây thiệt hại 120 tỷ đồng cho nhà nước.
Trong quá trình điều tra, nhà chức trách đã thu giữ 10 tỷ đồng và 30.000 USD. Các bị can và cá nhân liên quan đã tự nguyện nộp hơn 116 tỷ đồng và 100.000 USD để khắc phục hậu quả. 7 tài khoản của Chủ tịch Thuận An cũng bị phong tỏa, tổng cộng 32,5 tỷ đồng.
VKSND Tối cao cũng chỉ ra những sơ hở, thiếu sót trong các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý Nhà nước trong lĩnh vực xây dựng công trình giao thông, đấu thầu và kiểm toán, đồng thời kiến nghị tăng cường kiểm tra hoạt động xây dựng, lựa chọn nhà thầu và kiểm soát chặt chẽ hoạt động kiểm toán.
Sai phạm của một số cá nhân khác có liên quan sẽ tiếp tục được điều tra, xử lý. Vụ án này không chỉ phơi bày những sai phạm cụ thể mà còn cho thấy những lỗ hổng trong hệ thống quản lý, cần được khắc phục để đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong hoạt động đấu thầu.
Admin
Nguồn: VnExpress