“Nỗi Buồn Chiến Tranh” của Bảo Ninh, một tác phẩm ra đời cách đây hơn 30 năm, đến nay vẫn giữ vững sức ảnh hưởng mạnh mẽ và thu hút đông đảo độc giả. Tính đến năm nay, cuốn tiểu thuyết đã được tái bản lần thứ 26 tại Việt Nam. Không chỉ vậy, tác phẩm còn được dịch ra khoảng 20 ngôn ngữ khác nhau, với nhiều thứ tiếng có đến hai phiên bản, và được phát hành ở hàng chục quốc gia trên thế giới.

Năm 2022, nhà văn Bảo Ninh vinh dự nhận Giải thưởng Nghệ thuật Danube từ Hội Văn học nghệ thuật Danube và Nhà xuất bản AB ART (Hungary), một lần nữa khẳng định vị thế của tác phẩm trên văn đàn quốc tế. Hàng năm, có rất nhiều bài phê bình, luận văn, luận án, hội thảo và bài giảng được thực hiện xoay quanh tác phẩm này.
Giáo sư văn chương kiêm dịch giả người Đức, Günter Giesenfeld, đánh giá “Nỗi Buồn Chiến Tranh” thuộc hàng kinh điển thế giới trong dòng văn học chiến tranh, sánh ngang với những tiểu thuyết nổi tiếng như “Giã từ vũ khí” của Ernest Hemingway và “Phía Tây không có gì lạ” của Erich Maria Remarque.
Tiểu thuyết xoay quanh cuộc đời của Kiên, một chàng trai trẻ đầy lãng mạn và khát vọng, nhưng bị cuốn vào sự khốc liệt của chiến tranh. Chứng kiến quá nhiều mất mát và cái chết, Kiên dần trở nên ám ảnh, sống trong cô độc và không thể hòa nhập với cuộc sống thời bình. “Nỗi Buồn Chiến Tranh” ra đời trong bối cảnh Việt Nam thời hậu chiến, phản ánh chân thực bản chất của chiến tranh, khắc họa những dằn vặt nội tâm và vết sẹo không lành trong tâm hồn người lính. Tác phẩm nổi bật với bút pháp nghệ thuật khác biệt và cách tiếp cận đề tài mới mẻ so với những tác phẩm mang màu sắc anh hùng ca trước đó.
Giá trị vượt thời đại của “Nỗi Buồn Chiến Tranh” nằm ở khả năng đào sâu và bao quát nhiều chiều của hiện thực. Không gian chiến trường trong tác phẩm khác biệt hoàn toàn so với hình ảnh “đường ra trận mùa này đẹp lắm” thường thấy trong giai đoạn Văn học Cách mạng 1945-1975. Thay vào đó, Bảo Ninh khắc họa những cảnh tượng chết chóc, nơi mà cả phe thắng lẫn phe thua, cả địch và ta, đều phải đối diện với đau thương và mất mát. Sự buộc phải bắn giết lẫn nhau lâu dần có thể dẫn đến “tình người chết hoại”, khiến sự dửng dưng với cái ác lấn át, và môi trường ấy trở thành một thách thức lớn đối với nhân tính. Có những khoảnh khắc, “Kiên muốn ngừng bắn nhưng bàn tay thần chết giữ rịt lấy tay anh. Dòng lính áo xám bị xe tăng rượt dồn tới, dồn tới để chết chồng chất vì tay Kiên. Không phải là bắn nữa mà là tàn sát”.
Khi cuộc chiến kết thúc, không một ai có thể trở về vẹn nguyên. Phán, một trinh sát trung đoàn 24, luôn bị ám ảnh bởi hình ảnh người lính bên kia chiến tuyến bị anh đâm nhiều nhát dao, và dù anh đã cố gắng cứu chữa nhưng không thành công. Kiên cũng không thể tìm thấy sự bình yên trong những ngày khải hoàn. Anh cảm thấy lạc lõng và mặc cảm, cho rằng sự sống mà anh có được đến từ cái chết của đồng đội, “những người ưu tú nhất, tốt đẹp nhất, xứng đáng hơn ai hết quyền được sống trên cõi dương”.
Nhà văn Bảo Ninh đã vượt qua cái nhìn phân tuyến đơn giản giữa thiện và ác, giữa ta và địch. Bằng cách chạm đến những mất mát mang tính phổ quát, tiểu thuyết thúc đẩy con người vượt lên trên những khác biệt về không gian, thời gian, quan điểm và văn hóa, hướng tới tinh thần hòa giải, ý thức chia sẻ và cảm thông.
Một trong những điểm mới của tác phẩm là nhà văn nhìn chiến tranh qua lăng kính “nỗi buồn”. Kiên thất bại và chật vật trong cuộc sống hàng ngày, không thể vượt qua nỗi buồn về tình yêu, thân phận và sự sáng tạo. Nhà văn không xây dựng nhân vật theo mô típ anh hùng sử thi điển hình, luôn đứng cao hơn hoàn cảnh, mà tập trung vào khía cạnh “con người” với những bi kịch rất đời thường. Điều này khiến nhiều độc giả đương thời, vốn quen thuộc với nhãn quan văn học cách mạng, chưa sẵn lòng đón nhận tác phẩm.
Sáng tạo của Bảo Ninh thể hiện sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật, bản chất và ý nghĩa của việc “viết”. Tiểu thuyết ra đời gần với thời điểm báo Văn nghệ đăng tiểu luận “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa” (1987) của nhà văn Nguyễn Minh Châu, phản ánh sự tiếp nối và hô ứng với khát khao đổi mới văn học. Văn chương giờ đây không còn là tấm gương soi chiếu đơn thuần mà gắn liền với những suy ngẫm về đời tư và thế sự.
Cùng thời với “Nỗi Buồn Chiến Tranh”, có không ít tác phẩm viết về hiện thực trần trụi của chiến tranh như “Cỏ lau”, “Mùa trái cóc ở miền Nam” (Nguyễn Minh Châu), “Ăn mày dĩ vãng” (Chu Lai), “Ba người trên sân ga” (Hữu Phương), “Chim én bay” (Nguyễn Trí Huân). Tuy nhiên, tác phẩm của Bảo Ninh nổi bật hơn và cũng đối mặt với nhiều sóng gió hơn trong quá trình tiếp nhận, bởi nhà văn đã nhìn trực diện và gọi rõ cảm nhận về chiến tranh gắn liền với “nỗi buồn”. Ông không hề dè dặt hay cố gắng dung hòa với khuynh hướng sử thi. Phó giáo sư Phạm Xuân Thạch nhấn mạnh: “Vị thế cô độc và số phận dị thường ấy giúp ông nhìn thấy được những góc khuất của lịch sử”. Đồng thời, Bảo Ninh cũng đưa ra định nghĩa: “Chiến tranh là cõi không nhà, không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn ông, không đàn bà, là thế giới bạt sầu vô cảm và tuyệt tự khủng khiếp nhất của dòng giống con người!”.
Theo nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên, những lớp nhà văn trẻ không trực tiếp trải qua chiến tranh nhưng có thể thừa hưởng cách nhìn về bản chất của chiến tranh từ Bảo Ninh. Chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo, cách nhìn nhận cả ta và đối phương như “những con người trải qua mất mát của chiến tranh, không phải là cỗ máy giết chóc” xuất hiện nhiều trong các tác phẩm cùng đề tài sau này.

“Nỗi Buồn Chiến Tranh” cũng đánh dấu sự thành công của những thể nghiệm trong thi pháp tiểu thuyết. Tác phẩm có kết cấu phức tạp, lồng ghép hai câu chuyện chính: một là hồi ức do chính cựu binh Kiên kể lại, hai là câu chuyện về Kiên được tường thuật từ góc nhìn của một người thứ ba xưng “tôi”. Người đọc xưng “tôi” tự nhận mình không có đóng góp gì vào cuốn tiểu thuyết bạn đọc đang cầm trên tay, không biết sắp xếp, biên tập như thế nào vì “trang nào cũng hầu như là trang đầu, trang nào cũng có vẻ là trang cuối”. Tuy nhiên, thực chất, “tôi” đã vượt qua định kiến từ những người xung quanh để chia sẻ cảm nhận về cuộc chiến một cách nhất quán với Kiên.
Tiểu thuyết sử dụng kỹ thuật dòng ý thức, thời gian và không gian trôi theo dòng chảy ký ức của Kiên, phá vỡ logic thông thường. Nếu trong các sáng tác của văn học cách mạng, mạch truyện tuân theo trật tự không gian – thời gian tuyến tính, thì trong “Nỗi Buồn Chiến Tranh”, tất cả bị xáo trộn, liên tục dịch chuyển, phản ánh thế giới nội tâm phức tạp và đầy chấn thương của nhân vật. Chỉ một mùi hương hay âm thanh có liên hệ với hồi ức cũng có thể kích hoạt quá khứ bừng dậy trong giấc mơ, hoặc ngay cả khi đang tỉnh táo. Chẳng hạn, mùi hôi hám của phố phường khiến Kiên tưởng mình đang đi qua “đồi Xáo Thịt la liệt người chết sau trận xáp lá cà tắm máu cuối tháng Chạp 72”.
Trong tác phẩm, dòng tâm tưởng của Kiên bấn loạn, đứt đoạn và xoay chiều. Nhiều chi tiết và tình huống bị bỏ dở, không được kể tiếp. Hiện thực được ghép lại từ những mảnh vỡ và chấn thương tinh thần của anh. Vì thế, ngay từ lần đầu tiên tiếp xúc với bản thảo, người kể chuyện trong tác phẩm đã gọi đây là “một sáng tác dựa trên cảm hứng chủ đạo của sự rối bời”.
“Nỗi Buồn Chiến Tranh” cũng là cái bóng lớn, ám ảnh toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Bảo Ninh. Sau tiểu thuyết này, ông chủ yếu sáng tác truyện ngắn, tiếp tục đào sâu hiện thực chiến tranh từ kinh nghiệm cá nhân, làm phong phú thêm cho cái nhìn của cộng đồng về quá khứ. Phó giáo sư Phạm Xuân Thạch nhấn mạnh rằng thế giới trong những truyện ngắn đó giống như “một vệt kéo dài vang vọng của những mô-típ đã hiển hiện trong cuốn tiểu thuyết đầu tay của anh”.
Admin
Nguồn: VnExpress