Bác sĩ nội trú: Hành trình khắc nghiệt và sự rèn luyện

Bác sĩ nội trú từ lâu đã được xem là con đường ngắn nhất dẫn đến thành công trong sự nghiệp y khoa tại Việt Nam. Chương trình đào tạo sau đại học này chỉ dành cho những sinh viên y khoa ưu tú nhất, và cơ hội thi tuyển chỉ đến một lần duy nhất trong đời. Ba năm tôi luyện khắc nghiệt với cường độ làm việc và áp lực học tập cao độ đang chờ đợi những ai trúng tuyển. Đổi lại, họ sẽ được các giáo sư, bác sĩ đầu ngành trực tiếp chỉ dẫn, tạo dựng nền tảng chuyên môn vững chắc mà nhiều người khác phải mất hàng chục năm mới có được.

Để chạm tay vào cơ hội quý giá này, các bác sĩ tương lai phải vượt qua một kỳ thi đầy cam go. Bác sĩ Hoàng Văn Chương, 35 tuổi, người vừa tốt nghiệp ngành Nội tiêu hóa Đại học Y Hà Nội năm 2014, chia sẻ về thử thách ôn tập 720 câu hỏi tự luận cho 6 môn chuyên ngành.

“Học đến câu 700 là quên sạch câu đầu tiên,” anh Chương nhớ lại. Áp lực quá lớn khiến “nhiều bạn phải dùng thuốc an thần để tập trung, thậm chí có người bỏ cuộc giữa chừng.”

Chuyên ngành Nội khoa mà anh theo đuổi được ví như “trái tim” của y học lâm sàng, bao quát các lĩnh vực từ tim mạch, hô hấp, tiêu hóa, thận – tiết niệu, huyết học đến cơ – xương – khớp. Bác sĩ nội tổng hợp không chỉ rèn luyện tư duy hệ thống, khả năng chẩn đoán phân biệt mà còn đóng vai trò nòng cốt trong điều phối và hội chẩn. Chính vì thế, trong số hơn 100 bác sĩ nội trú, chỉ có 12 người được chọn vào khoa Nội, và bác sĩ Chương là một trong bốn người theo đuổi chuyên ngành Tiêu hóa.

Bác sĩ Chương chụp ảnh lưu niệm trước giờ bảo vệ tốt nghiệp nội trú năm 2017, tại Đại học Y Hà Nội. Ảnh: Tú Lê
Ảnh: Bác sĩ Chương tốt nghiệp nội trú Đại học Y Hà Nội, 2017. Ảnh: Internet

Áp lực học tập kéo dài đã ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe của anh. Tóc anh rụng nhiều, và những mảng hói lớn bắt đầu xuất hiện khi anh chính thức bước vào chương trình nội trú. “Hầu hết bác sĩ nội trú đều gầy đi trông thấy, già hơn, tóc bạc hoặc rụng,” anh Chương tâm sự.

Mỗi tháng, bác sĩ Chương phải trực khoảng 10 ca, mỗi ca kéo dài 24 tiếng. Sau ca trực, anh vẫn tiếp tục ở lại bệnh viện đến 10 giờ đêm. Thậm chí, có những hôm 3 giờ sáng anh mới về đến nhà tắm rửa, và 7 giờ sáng đã phải quay lại làm việc. Với hơn 150 bệnh nhân trong khoa, bác sĩ nội trú phải nắm rõ tình trạng của từng người. “Chỉ cần sai sót, thầy sẽ gọi tên bác sĩ nội trú đầu tiên,” anh kể lại.

Bác sĩ Chương (áo xanh) nội soi cho một bệnh nhân tại phòng khám, tháng 9/2025. Ảnh: Tú Lê
Bác sĩ Chương nội soi tại phòng khám (Ảnh: Tú Lê, 9/2025). Ảnh: Internet

Do kỳ vọng lớn đi kèm với áp lực cao, bác sĩ nội trú thường xuyên phải đối mặt với những lời nhắc nhở, thậm chí là bị khiển trách trước mặt bệnh nhân và đồng nghiệp. Thời gian căng thẳng nhất là khi trực cấp cứu, khi nhiều bệnh nhân nguy kịch cùng lúc. “Có khi đang cấp cứu bệnh nhân này thì bệnh nhân khác lại trở nặng,” anh Chương nhớ lại.

Với mái tóc hói nửa đầu và thân hình gầy gò (cao 1,7 m nhưng chỉ nặng 56 kg), anh Chương thường bị mọi người trêu là “cái sào di động”. Năm cuối nội trú, anh quen một cô bạn gái khóa dưới. “Hồi đó không có thời gian nên chẳng thể yêu ai ngoài người trong bệnh viện,” anh chia sẻ. Tuy nhiên, do cả hai đều quá bận rộn, mối tình này đã không có kết quả.

Chị Lê Quỳnh, vợ của một bác sĩ nội trú khóa 42, chia sẻ rằng chỉ khi sống cùng chồng, chị mới thực sự thấu hiểu những vất vả mà anh phải trải qua. Chị và chồng là bạn thanh mai trúc mã, và họ kết hôn ngay khi anh Nguyên bắt đầu chương trình nội trú. “Vợ chồng mới cưới, nhưng chồng tôi phải đi trực ba ngày một tuần. Những hôm không trực, anh cũng ở lại bệnh viện đến 10 giờ đêm, về đến nhà là lăn ra ngủ,” chị kể.

Chị Quỳnh kể lại một kỷ niệm: “Có lần, tôi đi làm về, biết chồng đang ngủ trong nhà nhưng đập cửa mãi không được. Tôi đập mạnh đến mức bung cả chốt cửa mà chồng vẫn không hề hay biết. Hơn một tiếng sau, anh tỉnh dậy thấy vợ đang nấu ăn thì hỏi một câu rồi lại ngủ tiếp.” Nhiều đêm, chị giật mình tỉnh giấc vì nghe thấy chồng la hét trong mơ, như thể đang cấp cứu bệnh nhân trong bệnh viện.

Áp lực của chương trình nội trú còn lớn hơn đối với các bác sĩ nữ như Lê Thị Bích Ngọc, 26 tuổi. Có lần, khi khoa Cấp cứu A9, Bệnh viện Bạch Mai vừa giảm bớt bệnh nhân lúc 10 giờ đêm, bác sĩ Ngọc tranh thủ đi ăn tối. Chỉ 20 phút sau khi quay lại, cô đã thấy tấm bảng chuyển sang màu đỏ – dấu hiệu cảnh báo mức độ cấp cứu khẩn cấp cao nhất. Không khí trong phòng trở nên căng thẳng. Tiếng máy monitor dồn dập, xen lẫn tiếng y lệnh ngắn gọn.

Ba bác sĩ đang thay nhau ép tim, phối hợp với các kỹ thuật hồi sức khác để giành lại sự sống cho một bệnh nhân đã ngừng tim ngoại viện. Ngọc nhanh chóng lao vào hỗ trợ. Sau 40 phút nỗ lực không ngừng nghỉ, cuối cùng tín hiệu sự sống đã trở lại trên màn hình. Khoảnh khắc ấy, nữ bác sĩ cảm thấy cay mắt.

Bác sĩ Ngọc khám cho người dân trong chuyến công tác tại Yên Bái năm 2023. Ảnh nhân vật cung cấp
Bác sĩ Ngọc khám bệnh tại Yên Bái, 2023 (Ảnh tư liệu). Ảnh: Internet

“Bệnh nhân mới ngoài 30 tuổi, và bên ngoài cánh cửa phòng cấp cứu là cha mẹ, vợ con đang cần anh làm chỗ dựa,” bác sĩ Ngọc tâm sự. “Khoảnh khắc nhìn thấy tim anh ấy đập trở lại, tôi nghĩ rằng mình đã làm được điều xứng đáng với nghề.”

Hiện tại, Bích Ngọc là bác sĩ nội trú năm thứ ba, chuyên ngành Nội tổng hợp, đi sâu vào cơ – xương – khớp. “Làm nội tổng hợp cho tôi một nền tảng vững chắc mà tôi sẽ sử dụng trong suốt sự nghiệp, bất kể sau này tôi theo đuổi nghiên cứu, giảng dạy hay thực hành chuyên khoa,” Ngọc chia sẻ.

Trong ba năm qua, Ngọc thực hành chủ yếu tại các khoa Nội và tăng cường cho A9, Bệnh viện Bạch Mai và Bệnh viện Đại học Y. Làm việc tại nơi ranh giới giữa sự sống và cái chết rất mong manh, Ngọc cho biết cô phải chịu áp lực rất lớn từ chuyên môn, từ các thầy cô hướng dẫn, đồng nghiệp và cả gia đình bệnh nhân.

Dù là nữ, ca trực và cường độ làm việc của Ngọc không hề khác biệt so với các đồng nghiệp nam. Mỗi ngày, cô bắt đầu làm việc từ 7 giờ sáng và kết thúc vào 10 giờ đêm, với 3 ca trực mỗi tuần. Những ngày được ngủ 2-3 tiếng đã là may mắn. Trong suốt ba năm nội trú, cô không có kỳ nghỉ hè nào, và ngày Tết cũng rất hạn chế. Nhiều hôm về đến nhà, cô ngủ thiếp đi ngay lập tức. “Chúng tôi thường đùa nhau rằng ‘sống chỉ để trực đêm’,” Ngọc kể.

Bích Ngọc cảm thấy may mắn khi có bạn trai luôn đồng hành trong suốt 5 năm qua. Họ đã kết hôn vào đầu năm nay, nhưng kế hoạch sinh con phải chờ đến khi cô tốt nghiệp. Cô cho biết do áp lực công việc quá lớn, nhiều bác sĩ nội trú chưa nghĩ đến việc lập gia đình, thậm chí nhiều người “chưa có một mảnh tình vắt vai”. Những năm trước đây, việc kết hôn rất hiếm, và việc mang thai gần như là điều cấm kỵ.

“Ba năm nội trú là một hành trình gian khổ nhưng cũng là một chương huy hoàng của tuổi trẻ mà bất kỳ bác sĩ nào cũng muốn trải qua,” bác sĩ Ngọc khẳng định. Với cô, đây là một lò rèn, nơi mọi giới hạn về thể lực, tinh thần và kiến thức đều được thử thách. Nhưng đó cũng chính là hành trình giúp cô trưởng thành, tự tin và bản lĩnh hơn trên con đường trở thành một bác sĩ giỏi.

Hoàng Văn Chương cũng vậy. Anh đã trở thành một bác sĩ như mong muốn. Mặc dù mái tóc hói nửa đầu của anh không thể trở lại như xưa, anh đã chọn cách cạo trọc để “dễ nhìn hơn”.

Sau một thời gian làm việc tại Bệnh viện Bạch Mai, anh Chương đã chuyển sang một bệnh viện tư ở Hà Nội, với mong muốn tiếp tục theo đuổi sự nghiệp y khoa, đồng thời có thêm thời gian cho gia đình và chuẩn bị cho kế hoạch sinh con thứ hai.

Vợ chồng chị Quỳnh cũng đã trở về Thanh Hóa. Chồng chị hiện là giảng viên tại Đại học Y Hà Nội cơ sở Thanh Hóa, đồng thời là bác sĩ tại bệnh viện tỉnh. Thay vì phải gồng gánh như những năm chồng học nội trú, chị đã mở một quầy thuốc nhỏ tại nhà để tiện chăm sóc con cái.

“Sau một hành trình đầy gian nan, giờ đây tôi cảm thấy mãn nguyện vì chồng tôi có thể chăm lo cho gia đình và giúp đỡ được nhiều bệnh nhân, đúng như lý tưởng nghề nghiệp mà anh ấy đã đặt ra,” chị Quỳnh chia sẻ.

Admin


Nguồn: VnExpress

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *