Ngày 19/9, UBND tỉnh Quảng Trị đã long trọng khánh thành khu tưởng niệm 16 thanh niên xung phong (TNXP) tại chính nơi họ đã anh dũng hy sinh. Công trình được tôn tạo trong hơn 5 tháng, với tổng kinh phí 20 tỷ đồng từ nguồn xã hội hóa.
Điểm nhấn của khu tưởng niệm là đài tưởng niệm được thiết kế theo hình tượng bó lúa, gồm 16 bông lúa cao 16 mét, đặt trên bệ hình ngôi sao. Tượng đài này biểu trưng cho sự hy sinh anh dũng của 16 TNXP quê Thái Bình.
Trong buổi lễ khánh thành, ông Vũ Thế Huyền, 71 tuổi, một đồng đội của Đại đội C130, Tiểu đoàn 2, Sư đoàn 571, Đoàn 559, xúc động rà soát từng cái tên trên bia tưởng niệm. Ông dừng lại ở tên Bùi Năng Đắc và chia sẻ: “Đáng lẽ vị trí này là tên tôi, không phải anh Đắc. Hôm đó do hoán đổi công việc nên tôi mới sống sót”. Anh Đắc hy sinh ở tuổi 22 cùng với người yêu là chị Ngô Thị Đông, 19 tuổi.
Ông Huyền hồi tưởng, vào tháng 4/1971, khi mới 17 tuổi, ông cùng 134 thanh niên từ huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình (nay là Hưng Yên), gia nhập Đại đội C130 TNXP. Họ lên đường khi cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của Mỹ diễn ra ác liệt. Những thanh niên từ vùng quê “năm tấn” hành quân vào tỉnh Quảng Bình, nhận nhiệm vụ đảm bảo giao thông thông suốt trên tuyến đường Trường Sơn, huyết mạch chi viện cho miền Nam.

Đại đội C130 tham gia mở nhiều tuyến đường ở miền tây Quảng Bình. Công việc hàng ngày của họ là phá đá mở đường, san lấp hố bom, cứu hàng hóa, nhặt bom bi và di dời bom để xe qua lại. Họ còn vào rừng chặt cây, dựng hầm chữ A tại các điểm tập kết hàng hóa, làm nơi trú ẩn cho bộ đội và người dân khi bị địch tấn công.

Vào cuối năm 1971, đầu năm 1972, Đại đội C130 được giao nhiệm vụ mở đường 10 để giảm tải cho đường Trường Sơn. Để ngăn chặn tuyến đường chi viện này, quân đội Mỹ đã sử dụng các thiết bị trinh sát, được gọi là “cây nhiệt đới”, có khả năng phát hiện người, vũ khí và xe cơ giới thông qua chấn động, từ trường và âm thanh. Khi phát hiện thiết bị trinh sát, đơn vị phải di chuyển để tránh bị lộ.
Khi đường 10 bị lộ, vào cuối tháng 7/1972, Đại đội C130 của ông Huyền nhận lệnh chuyển đến phà Long Đại 2, cách phà Long Đại 1 khoảng một km về phía hạ nguồn sông Long Đại. Khu vực này trở thành điểm trọng yếu, hứng chịu hàng trăm tấn bom đạn từ máy bay Mỹ. Máy bay trinh sát quần thảo trên không, máy bay AD4 bắn đạn xối xả, còn DA6, F-111 và B-52 liên tục ném bom. Pháo từ Hạm đội 7 cũng bắn phá suốt ngày đêm.
Để đối phó với máy bay Mỹ, một khẩu pháo phòng không 57 mm được bố trí tại phà Long Đại 2, nhưng tầm bắn hạn chế, không thể bắn hạ máy bay địch. Mặc dù phải đối mặt với điều kiện khắc nghiệt, bệnh tật hoành hành, những TNXP tuổi đôi mươi vẫn kiên cường bám trụ, quyết tâm “Sống bám cầu, bám đường – Chết kiên cường, dũng cảm”.
Vào buổi sáng ngày 19/9/1972, ông Huyền cùng 14 người được giao nhiệm vụ chèo thuyền chở đá qua sông Long Đại để bốc dỡ lên bờ. Anh Bùi Năng Đắc được phân công lên rừng chặt cây làm hầm chữ A. Do anh Đắc bị ngứa lở loét, sức khỏe yếu, nên hai người đã đổi công việc cho nhau.
Đến hơn 14h cùng ngày, khi 12 người đang đứng trên bờ và 3 người đang chèo thuyền chở đá từ bờ nam sang bờ bắc sông Long Đại, máy bay trinh sát Mỹ phát hiện và bắn pháo khói vào bến phà Long Đại 2 để báo hiệu mục tiêu cho máy bay ném bom. 12 người trên bờ vội vàng chạy vào hai hầm chữ A để trú ẩn. Một hầm được làm bằng cọc bê tông, hầm còn lại làm bằng cây gỗ, hai hầm cách nhau khoảng 20 mét.

Đang chặt cây trên núi, cách bến phà hơn một km, ông Huyền nghe thấy tiếng bom nổ và là người đầu tiên chạy đến hiện trường. Quả bom rơi trúng giữa hai hầm, khiến cả hai đều sập, cây cối đổ ngổn ngang. “Tôi thấy chị Xuyền nằm gần cửa hầm, đầu đầy máu, vẫn còn thở, nhưng bị mắc kẹt và tắt thở ngay sau đó. 12 người chết trong hầm do sức ép của bom, còn 3 người trên sông thì thi thể không còn nguyên vẹn. Đơn vị và người dân đã đào bới hầm và nhặt từng mảnh thi thể để mai táng”, ông Huyền nghẹn ngào kể lại.

Bốn ngày sau, quân đội Mỹ tiếp tục ném bom xuống bến phà, khiến anh Trần Mạnh Hà hy sinh trong khi làm nhiệm vụ. Sau hai đợt ném bom, Đại đội C130 đã mất 16 người, gồm 7 nữ và 9 nam. 15 người được đưa về quê an táng, một người được mai táng tại nghĩa trang xã. Mặc dù chịu tổn thất lớn, Đại đội C130 vẫn kiên trì bám trụ, hoàn thành nhiệm vụ cho đến khi Hiệp định Paris được ký kết vào ngày 27/1/1973. Cuối năm 1972, ông Huyền bị sốt rét và được đưa về quê để điều trị.

Ông Nguyễn Văn Phúng, 84 tuổi, nguyên là lính binh trạm C16, phụ trách bến phà Long Đại 1 và 2, cho biết, bến phà Long Đại ra đời khi cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của Mỹ bắt đầu. Do nhu cầu vận chuyển lớn, phà Long Đại 2 được xây dựng thêm để hỗ trợ phà Long Đại 1.
“Khi phà Long Đại 1 bị tắc nghẽn hoặc bị đánh bom, bộ đội sẽ sử dụng phà Long Đại 2. Phà Long Đại 2 còn có nhiệm vụ tạo vết xe để thu hút máy bay trinh sát của địch, nhằm phân tán bom đạn, bảo vệ phà Long Đại 1”, ông Phúng cho biết.
Vào ban ngày, cả hai phà Long Đại 1 và 2 đều được kéo vào cất giấu, đến tối mới được lắp ráp lại để phục vụ việc vận chuyển. Nhiều đêm, pháo sáng của địch chiếu sáng như ban ngày, máy bay trinh sát lượn lờ trên không, khiến xe không thể qua lại. Hàng hóa bị ùn ứ, trong khi tiền tuyến đang rất cần. Vì vậy, mỗi khi địch ngừng bắn, bộ đội và TNXP lại nhanh chóng lắp phà để xe có thể tiếp tục hành trình.
Để tưởng nhớ 16 TNXP Đại đội C130, một nhà bia tưởng niệm đã được xây dựng vào năm 2012 từ nguồn kinh phí xã hội hóa. Đến tháng 10/2016, bến phà Long Đại 2 được công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh, và sau đó được xếp hạng di tích lịch sử quốc gia. Tuy nhiên, trải qua thời gian, một số hạng mục đã xuống cấp, quy mô công trình chưa tương xứng với tầm vóc và ý nghĩa lịch sử của địa danh này. Do đó, vào cuối tháng 4/2025, tỉnh Quảng Bình đã quyết định khởi công dự án tôn tạo khu tưởng niệm.
Admin
Nguồn: VnExpress