Vượt Trường Sơn ‘Nối Sóng’: Ký Ức Điện Báo Viên

Trong một căn nhà ở đường Trần Cung, Cầu Giấy, Hà Nội, ông Đoàn Như Lẫm, 78 tuổi, cùng những đồng đội điện báo năm xưa tụ họp, ôn lại những ký ức hào hùng về “trận chiến” trên sóng vô tuyến cách đây 57 năm.

Ông Lẫm xúc động kể lại: “Bảy năm gắn bó với chiến trường, chúng tôi đã nhận và chuyển đi hàng trăm nghìn bức điện. Nhưng xúc động nhất là bức điện báo tin chiến thắng vào sáng 30/4/1975.”

Vào thời khắc lịch sử ấy, cụm đài của ông Lẫm đặt tại căn cứ Trung ương Cục miền Nam ở Tây Ninh đã nhận được một bức điện “minh ngữ” (không mã hóa) từ một đài bạn đang đi cùng ông Võ Văn Kiệt, Bí thư Khu ủy T4 (khu Sài Gòn – Gia Định). Nội dung bức điện: “Báo cáo Thường vụ. Đã nhận được điện đầu hàng của Dương Văn Minh. Chúng tôi chuẩn bị vô. Ký: Sáu Dân.”

Điện báo viên Lê Quý Điểu là người trực tiếp nhận bức điện vào lúc 8h sáng. Tuy nhiên, do bức điện được gửi dưới dạng “minh ngữ,” vi phạm nguyên tắc bảo mật, ban đầu cụm đài của ông Lẫm đã từ chối tiếp nhận. Mặc dù vậy, đầu dây bên kia liên tục thúc giục, nhấn mạnh tính khẩn cấp của thông tin và yêu cầu chuyển ngay cho Cấp ủy (Trung ương Cục miền Nam). Cuối cùng, cụm đài quyết định chấp hành.

Sau khi xác minh, bức điện được xác nhận là do chính ông Sáu Dân (bí danh của ông Võ Văn Kiệt) gửi. Tin chiến thắng lan tỏa, mọi người vỡ òa trong niềm vui sướng tột độ. “Người ôm nhau khóc, người hát vang, còn tôi thì giương súng bắn lên trời ăn mừng. Chúng tôi biết rằng đất nước đã thống nhất,” ông Lẫm nhớ lại.

Ông Đoàn Như Lẫm, 78 tuổi, cựu điện báo viên tham gia kháng chiến chống Mỹ, kể về hành trình vượt Trường Sơn vào chi viện cho chiến trường miền Nam, sáng 15/9. Ảnh: Nga Thanh
Ông Đoàn Như Lẫm: Hành Trình Vượt Trường Sơn Chi Viện Miền Nam. Ảnh: Internet

Tháng 4/1968, chàng thanh niên 21 tuổi Đoàn Như Lẫm, khi đó là nhân viên Bưu điện Hà Nội, lên đường vào Nam nhận nhiệm vụ điện báo viên, bắt đầu hành trình gian khổ vượt Trường Sơn.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, thông tin liên lạc đóng vai trò sống còn, quyết định sự thành bại của chiến dịch. Mạng lưới thông tin liên lạc Bắc – Nam thời bấy giờ được duy trì bằng ba phương thức: điện thoại, đường thư và vô tuyến điện. Vô tuyến điện là phương thức nhanh nhất, nhưng cũng nguy hiểm nhất, bởi mỗi lần phát sóng là một lần đối mặt với nguy cơ bị địch phát hiện, định vị và tấn công.

Nhiệm vụ của những điện báo viên được ngành Bưu điện chi viện từ miền Bắc là đảm bảo “mạch máu” thông tin luôn thông suốt, không bị gián đoạn, ngay cả trong những hoàn cảnh ác liệt nhất. Đó là lý do hàng nghìn thanh niên như ông Lẫm đã tình nguyện lên đường.

Đoàn của ông Lẫm có 200 người. Họ di chuyển bằng ô tô từ Hòa Bình vào Hà Tĩnh, sau đó đi bộ xuyên rừng Trường Sơn trong suốt 5 tháng. Những nhân viên bưu điện quen với máy móc và tiếng “tạch tè” của mã Morse, giờ đây phải đối mặt với những thử thách sinh tồn khắc nghiệt.

Họ phải vượt qua những con dốc dựng đứng, chống chọi với sốt rét rừng ác tính và những trận càn quét của địch. Không ít người đã ngã xuống giữa đại ngàn.

Một cụm đài vô tuyến điện của Ban thông tin vô tuyến điện R (Thông tin liên lạc Trung ương cục) tại chiến khu Tân Biên trước năm 1975. Ảnh: VNPT TP HCM
Đài Vô Tuyến Điện R: Ký Ức Chiến Khu Tân Biên, 1975. Ảnh: Internet

“Mục tiêu của chúng tôi lúc đó là phải đến được địa điểm ‘B2 S9 ông cụ’,” ông Lẫm kể. Đây là mật danh của Hậu cần chiến trường B2, một trong những chiến trường ác liệt nhất miền Nam.

Khi đến nơi, ông Lẫm được phân công về cụm đài B20. Công việc chủ yếu diễn ra vào ban đêm, thời điểm tín hiệu dễ bị chập chờn và nhiễu sóng. Người điện báo viên phải làm việc với sự tập trung cao độ, một tay gõ mã, tay kia liên tục dò chỉnh máy thu. Đôi tai phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: vừa lắng nghe tín hiệu “tạch tè” của đồng đội, vừa phải căng tai nghe ngóng tiếng máy bay địch. Chỉ cần một tiếng ầm ì từ xa, mọi hoạt động phát sóng phải dừng lại ngay lập tức, nếu không tọa độ sẽ bị phát hiện và bom đạn sẽ trút xuống.

Đó là cuộc đấu trí căng thẳng diễn ra từng giờ, từng phút. Để tồn tại, các cụm đài phải liên tục di chuyển, thay đổi tần số và tuân thủ kỷ luật thép: tuyệt đối không nấu ăn, không nói chuyện lớn tiếng, không được bắn trả khi bị phục kích hay tấn công để bảo toàn bí mật.

“Ban thông tin còn lập ra cụm đài giả B6, chuyên phát tín hiệu nhiễu để thu hút sự chú ý của địch. Cụm đài này trở thành mồi nhử, kéo B-52 về phía mình, hứng chịu bom đạn để cụm đài chính được an toàn làm nhiệm vụ,” ông Lẫm kể.

Tháng 3/1970, cụm đài của ông Lẫm nhận lệnh di chuyển sang Campuchia để tránh các đợt càn quét. Mỗi người mang một bộ phận của máy liên lạc, băng rừng lẩn tránh máy bay B-52.

Tuy nhiên, chỉ ba tháng sau, địch đã phát hiện ra căn cứ mới. B-52 dội bom liên tục. Cứ 15 phút lại có một đợt, tiếng máy bay rít trên đầu “ì ì như tiếng cối xay lúa”. Nghe hiệu lệnh, tất cả mọi người lao xuống hầm trú ẩn. Khi đợt bom kết thúc, họ lại trồi lên, tranh thủ làm việc. Suốt nhiều ngày, cả đơn vị không thể nấu ăn, phải cầm cự bằng gạo rang và nước suối.

“Trong đợt oanh tạc kéo dài đó, đơn vị chúng tôi không có ai hy sinh. Nhưng cụm thông tin B19 nằm ngay cạnh, cả một đài gồm 5 điện báo viên bị vùi chết dưới hầm,” ông Lẫm bùi ngùi nhớ lại.

Ông Vũ Ngọc Lương, 77 tuổi, cũng có những ký ức không thể quên về giai đoạn ở Campuchia. Tốt nghiệp trường điện báo ở Hà Nam, năm 24 tuổi, ông xung phong vào Nam, sau ông Lẫm bốn năm. Khi đường tiếp tế bị máy bay B-52 cắt đứt, lương thực cạn kiệt, cụm đài của ông Lương phải bẫy chuột rừng để cầm cự.

Cuối năm 1972, gần thời điểm ký Hiệp định Paris, lượng điện báo tăng vọt. Các điện báo viên phải làm việc liên tục 3-4 ngày đêm không ngủ. “Tay nghe, tay gõ, chân đạp ragono (máy phát điện). Nhiều lúc buồn ngủ quá, tôi phải tự tát vào mặt để tỉnh táo ghi chép và truyền tin chính xác,” ông Lương kể.

Tháng 4/1973, ông Lương nhận nhiệm vụ đi cùng Bí thư khu ủy hành quân xuống Khu 8 (vùng Đồng bằng sông Cửu Long) để truyền những tin tức tình báo quan trọng về Trung ương Cục miền Nam. Để di chuyển, điện báo viên phải mang trên vai một bộ máy vô tuyến điện 15W, ăng ten, máy ragono và các thiết bị khác.

“Bộ máy nặng gần 40 kg, trong khi cơ thể tôi chỉ hơn 50 kg. Đường hành quân sình lầy, liên tục bị địch truy đuổi, nhưng không ai được phép tụt lại phía sau. Nhiệm vụ là phải đến đúng vị trí và truyền tin chính xác,” ông Lương nhớ lại.

Với người điện báo viên, máy móc quan trọng hơn cả tính mạng. Một quy tắc ngầm thời đó là nếu gặp địch càn quét, việc đầu tiên là phải đào đất chôn giấu máy móc rồi mới tính đến chuyện thoát thân.

Ông Nguyễn Văn Thanh, 75 tuổi, Chủ nhiệm câu lạc bộ truyền thống kháng chiến khối thông tin miền Nam khu vực phía Bắc, cho biết trong kháng chiến, ngành Bưu điện miền Bắc đã có hàng nghìn nhân viên chi viện cho miền Nam. Sự đóng góp của họ đã giúp mạng lưới thông tin phát triển vượt bậc. Lượng điện báo từ 3.000-4.000 bức những năm 1968 tăng vọt lên 80.000 bức mỗi tháng vào cuối năm 1973. Đáng chú ý, trong gần 300 máy thu phát hoạt động trên toàn miền, có tới 250 máy do các chiến sĩ tự lắp ráp.

Hành trình xuyên Trường Sơn của những người
Điện Báo Viên Bắc: Kháng Chiến Chống Mỹ (1968-1975). Ảnh: Internet

Để giữ vững “mạch máu” thông tin ấy, sự hy sinh là không thể tránh khỏi. Trong hơn 20 năm, toàn ngành Bưu điện đã có hơn 4.400 người hy sinh và trên 2.000 người bị thương.

Những người như ông Lẫm, ông Lương, ông Thanh đều được trao tặng Huân chương Chiến thắng và nhiều bằng khen. Nhưng với họ, niềm vui chiến thắng không bao giờ trọn vẹn.

Ông Đoàn Như Lẫm, ông Vũ Ngọc Lương và ông Nguyễn Văn Thanh (từ trái sang phải), cựu điện báo viên từng tham gia kháng chiến chống Mỹ tại chiến trường miền nam, giai đoạn 1968 - 1975, tại nhà riêng trên đường Trần Cung, Cầu Giấy, sáng 15/9. Ảnh: Nga Thanh
Cựu Điện Báo Viên Kể Chuyện Kháng Chiến Chống Mỹ, 1968-1975. Ảnh: Internet

“Chúng tôi may mắn được trở về, nhưng luôn đau đáu nỗi tiếc thương cho những đồng đội đã ngã xuống. Nhiều người trong số họ đến nay vẫn chưa tìm thấy hài cốt, chưa được về với gia đình,” ông Thanh ngậm ngùi chia sẻ.

Đó cũng là lý do câu lạc bộ của ông Thanh ra đời và duy trì hoạt động. Họ không chỉ gặp nhau để ôn lại kỷ niệm, mà còn cùng nhau đi tìm đồng đội, thăm hỏi, động viên gia đình các liệt sĩ, để phần nào xoa dịu những nỗi đau còn lại sau chiến tranh. Những cống hiến thầm lặng của họ đã góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc.

Admin


Nguồn: VnExpress

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *