Thạc sĩ, bác sĩ Nguyễn Hoài Vũ, công tác tại Khoa Tim mạch, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh Hà Nội, lưu ý rằng, ở giai đoạn đầu, cả suy giãn tĩnh mạch chân và huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới đều có thể gây ra các triệu chứng tương tự như sưng, đau, và cảm giác nặng chân, dễ dẫn đến sự nhầm lẫn cho người bệnh. Tuy nhiên, suy giãn tĩnh mạch là một bệnh mãn tính, phổ biến và tiến triển chậm, chủ yếu ảnh hưởng đến thẩm mỹ và chất lượng cuộc sống. Ngược lại, huyết khối tĩnh mạch sâu nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời có thể gây ra những biến chứng nghiêm trọng. Việc phân biệt rõ ràng hai bệnh lý này là rất quan trọng để người bệnh có thể được điều trị đúng hướng và hiệu quả.
Vậy suy giãn tĩnh mạch chân là gì? Đây là tình trạng máu bị ứ đọng ở hệ thống tĩnh mạch chân, không lưu thông về tim như bình thường, dẫn đến tăng áp lực trong lòng tĩnh mạch và gây giãn tĩnh mạch.
Còn huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới là tình trạng hình thành cục máu đông trong các tĩnh mạch sâu ở chân, ví dụ như tĩnh mạch khoeo, tĩnh mạch đùi và tĩnh mạch vùng chậu. Nguyên nhân thường do máu bị ứ trệ, tổn thương lớp nội mạc mạch máu hoặc do tình trạng tăng đông máu của cơ thể.
Về triệu chứng, suy giãn tĩnh mạch thường tiến triển chậm, kéo dài từ nhiều tháng đến nhiều năm. Người bệnh thường cảm thấy nặng chân vào buổi chiều, đặc biệt sau khi đứng hoặc ngồi lâu, nhưng triệu chứng sẽ giảm khi nằm nghỉ và kê cao chân. Các biểu hiện khác có thể bao gồm phù chân, tĩnh mạch nông nổi ngoằn ngoèo, da thâm nâu, ngứa, chuột rút về đêm, và trong trường hợp nặng có thể xuất hiện loét dai dẳng quanh mắt cá chân. Bệnh thường ảnh hưởng đến cả hai chân.
Ngược lại, huyết khối tĩnh mạch sâu thường khởi phát đột ngột trong vài giờ đến vài ngày, gây sưng đau một bên chân, đặc biệt là ở bắp chân hoặc đùi. Người bệnh có thể cảm thấy đau nhói, căng tức khi đi lại hoặc khi ấn vào, vùng da tổn thương có thể ấm, đỏ hoặc tím tái. Nguy hiểm hơn, cục máu đông có thể di chuyển lên phổi gây thuyên tắc phổi, với các triệu chứng như khó thở, đau ngực, ho ra máu hoặc ngất xỉu, đòi hỏi phải được cấp cứu ngay lập tức.
Về nguyên nhân và yếu tố nguy cơ, suy giãn tĩnh mạch thường liên quan đến tuổi tác, yếu tố di truyền, thừa cân béo phì, các công việc đòi hỏi phải đứng lâu như giáo viên, bán hàng, công nhân, hoặc do mang thai nhiều lần ở phụ nữ.
Trong khi đó, huyết khối tĩnh mạch sâu thường xảy ra sau các phẫu thuật lớn, chấn thương, nằm viện hoặc bất động lâu ngày, thậm chí cả khi ngồi máy bay hoặc ô tô nhiều giờ. Bệnh cũng dễ gặp ở những người mắc ung thư, sử dụng thuốc nội tiết (như thuốc tránh thai, liệu pháp hormone), phụ nữ mang thai hoặc mới sinh. Những người đã từng bị suy giãn tĩnh mạch hoặc có rối loạn đông máu bẩm sinh cũng thuộc nhóm nguy cơ cao.

Để chẩn đoán suy giãn tĩnh mạch, bác sĩ chủ yếu dựa vào thăm khám lâm sàng và siêu âm Doppler để kiểm tra dòng chảy và phát hiện tình trạng trào ngược do van tĩnh mạch bị suy yếu. Đối với huyết khối tĩnh mạch sâu, người bệnh sẽ được đánh giá nguy cơ bằng thang điểm Wells, xét nghiệm máu D-dimer và siêu âm Doppler tĩnh mạch, phương pháp được xem là “tiêu chuẩn vàng” trong chẩn đoán bệnh này.
Về phương pháp điều trị, suy giãn tĩnh mạch chủ yếu được điều trị bằng cách giảm triệu chứng và cải thiện tuần hoàn máu thông qua việc mang tất y khoa, tập luyện, giảm cân, và kê cao chân khi nghỉ ngơi. Trong những trường hợp giãn tĩnh mạch lớn hoặc có biến chứng loét, có thể áp dụng các phương pháp như tiêm xơ, đốt laser tĩnh mạch, gây tắc tĩnh mạch bằng chất liệu sinh học hoặc phẫu thuật.
Đối với huyết khối tĩnh mạch sâu, người bệnh thường được chỉ định dùng thuốc chống đông trong khoảng thời gian từ 3 đến 6 tháng hoặc lâu hơn, tùy thuộc vào mức độ và các yếu tố nguy cơ. Trong một số trường hợp nặng, bác sĩ có thể cân nhắc các phương pháp như tiêu sợi huyết, can thiệp hút huyết khối hoặc đặt stent tĩnh mạch.
Bác sĩ Vũ khuyến cáo người bệnh nên đi khám ngay khi xuất hiện các triệu chứng bất thường như sưng đau chân. Để phòng ngừa cả hai bệnh lý này, mỗi người nên duy trì vận động nhẹ nhàng sau mỗi 1-2 giờ ngồi lâu, uống đủ nước, kiểm soát cân nặng và mang tất y khoa khi có các yếu tố nguy cơ. Sau phẫu thuật hoặc khi có các bệnh lý nền, người bệnh cần tuân thủ chặt chẽ các chỉ định điều trị và sử dụng thuốc chống đông theo đơn của bác sĩ.
Admin
Nguồn: VnExpress