Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị đặt ra mục tiêu đầy thách thức cho ngành giáo dục đại học Việt Nam, hướng tới việc có ít nhất 8 cơ sở giáo dục lọt vào top 200 trường hàng đầu châu Á. Tham vọng hơn, nghị quyết còn kỳ vọng đến năm 2030, Việt Nam sẽ có ít nhất một trường nằm trong top 100 thế giới ở một số lĩnh vực mũi nhọn, và con số này sẽ tăng lên 5 trường vào năm 2045.
Hiện tại, Việt Nam đã có những tín hiệu tích cực khi có 5 trường đại học được xếp hạng trong top 200 châu Á theo đánh giá của hai tổ chức uy tín là QS và Times Higher Education (THE). Cụ thể, Đại học Duy Tân (hạng 127), Đại học Quốc gia Hà Nội (hạng 161), Đại học Quốc gia TP HCM (hạng 184) và Đại học Tôn Đức Thắng (hạng 199) đều có mặt trong bảng xếp hạng của QS. Đại học Kinh tế TP HCM cũng ghi dấu ấn với vị trí 136 trên bảng xếp hạng của THE.

Tuy nhiên, nếu xét theo từng lĩnh vực cụ thể, thứ hạng cao nhất mà Việt Nam đạt được trên bảng xếp hạng của THE chỉ là nhóm 301-400, còn trên QS là 363. Dù một số ngành hẹp như Nghệ thuật biểu diễn hay Kỹ thuật dầu khí có những trường lọt vào nhóm 51-100, nhưng đây không được xem là thành tích ở các lĩnh vực chung.
Thạc sĩ Nguyễn Vinh San, đại diện nhóm nghiên cứu bảng xếp hạng đại học Việt Nam VNUR, nhận định Nghị quyết 71 đã đưa ra những giải pháp mang tầm vĩ mô, bao gồm hiện đại hóa, nâng tầm giáo dục đại học, tạo đột phá trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và nhân tài, dẫn dắt nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, cũng như đẩy mạnh hợp tác quốc tế sâu rộng. Vấn đề then chốt hiện nay là cần cụ thể hóa những giải pháp này bằng các chính sách thiết thực.
Ông San nhấn mạnh sự cần thiết phải tập trung nguồn lực, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm vào những trường đại học mạnh, có tiềm năng và quyết tâm cao. Ông đề xuất xây dựng một chương trình tương tự như “10 đại học tinh hoa Việt Nam”, thông qua việc lựa chọn một nhóm trường để đầu tư có điều kiện ràng buộc về kết quả đầu ra.
Đồng quan điểm, GS Nguyễn Lộc, nguyên Phó Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, cho rằng cần có một chương trình riêng biệt dành cho nhiệm vụ nâng hạng đại học, với các chỉ số KPI cụ thể và hạng mục đầu tư rõ ràng, tương tự như cách mà Hàn Quốc và Trung Quốc đã thực hiện. Ông gợi ý nên mở rộng cơ hội đăng ký cho nhiều trường đại học, không phân biệt công lập hay tư thục, thay vì chỉ tập trung đầu tư vào một nhóm nhỏ các trường đã có sẵn lợi thế nhất định.
Bên cạnh đó, một yếu tố quan trọng khác là Nhà nước cần tăng tỷ trọng chi ngân sách cho giáo dục đại học. Hiện tại, con số này chỉ dao động quanh mức 0,2-0,3% GDP, trong khi Ngân hàng Thế giới khuyến nghị mức tối thiểu nên là 1% GDP trở lên.
Cả ông Lộc, ông San và GS Nguyễn Đình Đức, nguyên Chủ tịch hội đồng trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội, đều thống nhất rằng việc trao quyền tự chủ mạnh mẽ và toàn diện hơn cho các trường đại học là một giải pháp then chốt. Điều này có nghĩa là các trường cần được chủ động thực hiện và quyết định các vấn đề liên quan đến học thuật, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính, trong khuôn khổ pháp luật cho phép.
GS Nguyễn Đình Đức chia sẻ kinh nghiệm từ Nhật Bản, quốc gia đã thực hiện tự chủ đại học từ năm 2004. Trước khi thực hiện chính sách này, Nhật Bản chỉ có hai trường nằm trong top 100 thế giới. Tuy nhiên, chỉ sau một thời gian ngắn áp dụng tự chủ, số lượng trường đại học của Nhật Bản lọt vào top 100 đã tăng lên con số 5.
Về phía các trường đại học, GS Nguyễn Lộc cho rằng cần ưu tiên nâng cao ba chỉ số quan trọng mà hầu hết các tổ chức xếp hạng lớn đều sử dụng, bao gồm số lượng công bố quốc tế và các chỉ số liên quan (đi kèm với tính liêm chính khoa học), tỷ lệ sinh viên/giảng viên và chỉ số quốc tế hóa (tỷ lệ sinh viên, giảng viên quốc tế).
Ông Lộc cũng chỉ ra rằng khoảng cách giữa các đại học Việt Nam và top 100 thế giới vẫn còn rất lớn. Ông lấy ví dụ Đại học Copenhagen của Đan Mạch, một trường đang xếp hạng quanh vị trí 100 trên cả hai bảng xếp hạng QS và THE 2025, có số lượng công bố quốc tế trong 5 năm qua là khoảng 50.000, trong khi con số này ở một đại học hàng đầu của Việt Nam chỉ khoảng 10.000. Tỷ lệ sinh viên trên giảng viên của Đại học Copenhagen là 5 (tức 5 sinh viên có một giảng viên), và tỷ lệ sinh viên, giảng viên quốc tế lần lượt là 10% và 30%. Các chỉ số này đều cao gấp 8-10 lần so với một đại học tốt của Việt Nam hiện nay.
Để cải thiện tình hình, GS Nguyễn Lộc nhấn mạnh rằng các trường cần xác định việc tham gia xếp hạng là một sự đầu tư lớn về mọi mặt. Về nhân lực, cần có một bộ phận chuyên trách để đôn đốc các phòng ban làm việc, thu thập số liệu và chuẩn bị hồ sơ một cách chuyên nghiệp. Trong khi đó, nhiều trường đại học ở Việt Nam hiện chỉ có một vài người phụ trách mảng này.
Để tăng cường công bố quốc tế, GS Lê Bảo Long từ Viện Khoa học Quốc gia (INRS), Đại học Quebec, Canada, nhấn mạnh sự cần thiết phải đầu tư vào cơ sở vật chất, đặc biệt là các phòng thí nghiệm và viện nghiên cứu. Ông cũng lưu ý các trường cần chú trọng đào tạo sinh viên và nghiên cứu sinh tài năng, bởi đây là lực lượng then chốt tạo ra phần lớn kết quả nghiên cứu. Tỷ lệ học viên thạc sĩ, tiến sĩ ở một đại học nghiên cứu hàng đầu thường chiếm từ 25% đến 70% tổng số sinh viên.
Song song với đó, các trường cần đẩy mạnh quốc tế hóa, hợp tác quốc tế và hợp tác với doanh nghiệp. Các tiêu chí này khuyến khích các trường tuyển dụng đội ngũ giáo sư đến từ nhiều quốc gia khác nhau, thu hút sinh viên từ khắp nơi trên thế giới, thực hiện các dự án hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học và trao đổi sinh viên.
GS Lê Bảo Long cho rằng, thông qua những nỗ lực này, các trường đại học sẽ dễ dàng được biết đến và tạo dựng danh tiếng trên trường quốc tế, từ đó đạt được những kết quả tốt trong các cuộc khảo sát của các tổ chức xếp hạng.
Tuy nhiên, ông cũng chỉ ra những thách thức mà các trường đại học Việt Nam đang phải đối mặt, đặc biệt là về tài chính. Ông dẫn chứng rằng kinh phí đào tạo sau đại học và nghiên cứu ở nhiều trường đại học nước ngoài có thể lên tới hàng trăm triệu đô la Mỹ mỗi năm. Sự thiếu hụt về cơ chế tài chính cũng ảnh hưởng đến khả năng thu hút giảng viên xuất sắc, bởi các trường đại học hàng đầu ở Singapore, Trung Quốc, Hàn Quốc luôn sẵn sàng cung cấp những đãi ngộ và điều kiện làm việc hấp dẫn để thu hút những nhân tài này.
GS Lê Bảo Long bày tỏ kỳ vọng rằng các nghị quyết của Bộ Chính trị như 57 (về phát triển khoa học, công nghệ), 68 (về phát triển kinh tế tư nhân) và 71 (về phát triển giáo dục và đào tạo) sẽ thúc đẩy Việt Nam đưa ra những chính sách đột phá để đạt được mục tiêu nâng hạng đại học, đưa nền giáo dục nước nhà vươn tầm thế giới.
Admin
Nguồn: VnExpress
