Nghiên cứu cơ bản: Nền tảng công nghệ tương lai, theo Giáo sư Nobel

Trong khuôn khổ Ngày hội Đổi mới sáng tạo Việt Nam – Pháp diễn ra chiều 3/10 tại Hà Nội, Giáo sư Serge Haroche đã có buổi chia sẻ gần một giờ đồng hồ về tầm quan trọng của nghiên cứu khoa học cơ bản, đặc biệt trong lĩnh vực lượng tử, với các nhà khoa học, học sinh và sinh viên Việt Nam. Ông nhấn mạnh: “Mọi thành tựu công nghệ hiện nay đều bắt nguồn từ một nền tảng nghiên cứu cơ bản vững chắc.”

Hội trường tại Ngày hội Đổi mới sáng tạo chật kín người trong phiên chia sẻ của GS Haroche, tháng 10/2025. Ảnh: Lưu Quý
GS Haroche “cháy” tại Ngày hội Đổi mới sáng tạo 2025 (Ảnh: Lưu Quý). Ảnh: Internet

Giáo sư Haroche cho rằng, các doanh nghiệp tư nhân thường có xu hướng ưu tiên nghiên cứu ứng dụng vì khả năng sinh lời nhanh chóng. Ông nhận định đây là một quan điểm sai lầm, bởi nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng là hai yếu tố không thể tách rời. “Đôi khi họ coi nghiên cứu cơ bản là một sự xa xỉ. Đây là cách nhìn nhận thiếu sót”, ông nói.

Dẫn lời của Hendrik Casimir, một nhà khoa học nổi tiếng trong lĩnh vực lượng tử, người có nhiều đóng góp cho sự phát triển của công ty điện tử Philips, Giáo sư Haroche khẳng định: “Hiếm có ví dụ nào về đổi mới sáng tạo của thế kỷ 20 mà lại không có thành tựu từ khoa học cơ bản.” Ông nói thêm, điều này không chỉ đúng với thế kỷ 20 mà còn chắc chắn đúng với thế kỷ 21.

Tuy nhiên, Giáo sư Haroche cũng thừa nhận rằng nghiên cứu cơ bản đòi hỏi sự kiên nhẫn và đầu tư lớn, bởi các công trình cần thời gian dài để hình thành, thử nghiệm trước khi các thành tựu khoa học có thể được ứng dụng rộng rãi.

Để minh họa, ông Haroche đã nhắc đến nghiên cứu của Maxwell về sự thống nhất giữa điện từ và ánh sáng, được thực hiện cách đây hơn 150 năm. Nghiên cứu này, vào thời điểm đó, từng bị coi là “hoàn toàn vô dụng”. Thế nhưng, từ khám phá này, các thế hệ sau đã phát hiện ra sóng radio, tia hồng ngoại và tia X, những phát minh đóng vai trò quan trọng trong khoa học, y tế và truyền thông vô tuyến điện, đồng thời giải đáp những câu hỏi mà vật lý trước đây chưa thể trả lời.

Một ví dụ khác là thiết bị chụp cộng hưởng từ (MRI), được phát minh vào những năm 1980, là kết quả của các nghiên cứu về cộng hưởng từ từ những năm 1950. Như vậy, phải mất 30 năm để nghiên cứu cơ bản có thể đi vào ứng dụng thực tế.

Giáo sư Haroche dẫn lời nhà giáo dục người Mỹ Flexner, người sáng lập Viện Nghiên cứu Princeton, rằng “Mọi thứ xảy ra trong phòng thí nghiệm cuối cùng sẽ dẫn đến một ứng dụng thực tế bất ngờ nào đó”. Flexner cũng là tác giả của bài viết nổi tiếng “Sự hữu ích của kiến thức vô ích” xuất bản năm 1939.

Giáo sư Serge Haroche chia sẻ tại Ngày hội Đổi mới sáng tạo, tháng 10/2025. Ảnh: Lưu Quý
GS. Serge Haroche tại Ngày hội Đổi mới sáng tạo 2025 (Ảnh: Lưu Quý). Ảnh: Internet

Ông kêu gọi loại bỏ tư duy về tính hữu ích khi nghiên cứu khoa học, bởi những công trình được thực hiện vì sự tò mò, không đặt nặng mục đích sử dụng, thường là nền tảng cho những khám phá khoa học vĩ đại. Các nghiên cứu càng ít bị chi phối bởi tính hữu ích, khả năng đóng góp cho sự tiến bộ tri thức càng cao.

Vậy, Việt Nam cần làm gì để phát triển nghiên cứu cơ bản?

Theo Giáo sư Haroche, để phát triển nghiên cứu cơ bản, điều quan trọng là thu hút những nhà nghiên cứu trẻ xuất sắc và sáng tạo, cho họ thấy những vấn đề mà thế giới đang cần lời giải. Sau đó, cần tạo điều kiện để họ tự do lựa chọn chủ đề nghiên cứu, bởi “trong khoa học, sự hiếu kỳ là động lực thúc đẩy giúp người ta đạt được những kết quả và ứng dụng hết sức bất ngờ”.

Ông cũng gợi ý rằng, để phát triển khoa học cần một chính sách dài hạn và liên tục, không bị gián đoạn. Ông đề xuất một mô hình ba bước: xây dựng nền tảng giáo dục phổ thông tốt, đặc biệt là các môn khoa học cơ bản; tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên đi học tiến sĩ và nghiên cứu sau tiến sĩ ở nước ngoài; và thu hút họ trở về nước để tiếp tục nghiên cứu và mở các phòng thí nghiệm riêng. Ông cho rằng đây là mô hình mà Trung Quốc đã rất thành công và Việt Nam có thể học hỏi.

Ngoài ra, nghiên cứu cơ bản là một quá trình dài hơi, đòi hỏi đầu tư lớn, đặc biệt là vào các phòng thí nghiệm, vì vậy cần có sự tham gia của khu vực công. “Cần có sự hỗ trợ tổng thể của Nhà nước và vai trò hỗ trợ lâu dài, dài hơi cho các dự án nghiên cứu khoa học cơ bản, tạo nền tảng vững chắc cho thanh niên và trí thức Việt Nam”, ông nhấn mạnh.

Trước đó, tại Việt Nam, Bộ Khoa học và Công nghệ đã xây dựng Luật Khoa học và Công nghệ và Đổi mới Sáng tạo, dưới sự chỉ đạo của Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng. Luật này, được thông qua vào tháng 6, quy định rõ về việc chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo, đồng thời đổi mới tư duy quản lý, chuyển từ kiểm soát quy trình và đầu vào sang quản lý kết quả và hiệu quả đầu ra, chấp nhận rủi ro gắn với quản trị rủi ro.

Giáo sư Serge Haroche sinh năm 1944, nhận bằng tiến sĩ năm 1971 và hiện là giáo sư danh dự tại trường Collège de France. Ông có niềm đam mê sâu sắc với công nghệ laser, quang học lượng tử và khoa học thông tin lượng tử. Năm 2012, ông vinh dự nhận giải Nobel cùng với cộng sự David Wineland nhờ những nghiên cứu đột phá về “các phương pháp thử nghiệm cho phép đo lường và thao tác các hệ thống lượng tử riêng lẻ”.

Admin


Nguồn: VnExpress

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *