Tại hội thảo thuộc khuôn khổ Đại hội Đại biểu Hội Răng Hàm Mặt TP HCM ngày 19/10, TS.BS.CK2 Lê Trung Chánh, Giám đốc Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung ương TP HCM, nhấn mạnh Việt Nam hiện chưa có chiến lược quốc gia riêng biệt cho sức khỏe răng miệng của người cao tuổi. Thực tế, số lượng người cao tuổi được thăm khám và dự phòng các bệnh răng miệng định kỳ còn rất hạn chế, trong khi các bệnh như nha chu và tình trạng mất răng lại có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe tổng thể.
Kết quả Điều tra sức khỏe răng miệng toàn quốc năm 2019 cho thấy một thực trạng đáng lo ngại: chỉ có khoảng 15% dân số Việt Nam đi khám răng định kỳ. Đáng chú ý hơn, có đến 85-90% người dân mắc viêm nha chu ở mức độ vừa đến nặng, đây là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến mất răng sớm và có mối liên hệ mật thiết với các bệnh mãn tính thường gặp ở người cao tuổi. Trung bình, mỗi người cao tuổi tại Việt Nam có khoảng 10 răng bị sâu. Riêng tại TP HCM, tỷ lệ người mất răng toàn bộ chiếm 8,2%, chỉ 42% người còn trên 20 răng thật, và 25% phải sử dụng hàm răng giả tháo lắp – những con số này đều cao hơn mức trung bình của cả nước.

BS.CK2 Nguyễn Thị Kim Ngọc, người phụ trách Khoa Lão Nha của Bệnh viện Răng Hàm Mặt TP HCM, cho biết số lượng bệnh nhân cao tuổi đến khám và điều trị các vấn đề răng miệng đang ngày càng tăng lên nhanh chóng, đặc biệt trong bối cảnh dân số Việt Nam đang già hóa với tốc độ cao. Trong 10 tháng đầu năm, khoa tiếp nhận trung bình khoảng 50 bệnh nhân mỗi ngày, tăng đáng kể so với con số 35 ca của năm trước. Mỗi tháng, có khoảng 30-50 trường hợp mất răng toàn hàm được điều trị, trong đó kỹ thuật phục hình toàn hàm kỹ thuật số giúp rút ngắn thời gian điều trị xuống chỉ còn 2-3 lần hẹn, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho những bệnh nhân lớn tuổi ở xa.
Theo bác sĩ Ngọc, bệnh nha chu có xu hướng gia tăng theo độ tuổi, đặc biệt là sau tuổi 30. Tình trạng mất răng ở người cao tuổi không chỉ đơn thuần do quá trình lão hóa tự nhiên, mà còn là hậu quả của việc chăm sóc răng miệng không đúng cách từ khi còn trẻ, dẫn đến những tổn thương tích lũy dần theo thời gian và trở nên nghiêm trọng hơn. Viêm nha chu, sâu răng và mất răng không chỉ gây ra những khó khăn trong việc ăn uống, mà còn có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe tim mạch, làm tăng nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường, suy giảm dinh dưỡng và sức đề kháng của cơ thể.
PGS.TS.BS Hoàng Trọng Hùng, Phó Chủ tịch Hội Răng Hàm Mặt TP HCM, cho biết Việt Nam đang trải qua giai đoạn già hóa dân số nhanh chóng, tương tự như nhiều quốc gia có thu nhập trung bình khác. Các bệnh răng miệng và bệnh mãn tính có mối liên hệ mật thiết với nhau, do chúng có chung các yếu tố nguy cơ như hút thuốc lá, chế độ ăn uống không lành mạnh và khả năng kiểm soát đường huyết kém.
Phó giáo sư Hùng nhấn mạnh số lượng răng còn lại có mối liên hệ trực tiếp đến tuổi thọ của mỗi người. Việc chăm sóc răng miệng tốt sẽ giúp cải thiện khả năng ăn uống, tăng cường hấp thu dinh dưỡng, từ đó giúp sống khỏe mạnh và kéo dài tuổi thọ.
Các chuyên gia cũng chỉ ra rằng tình trạng mất răng sớm ở Việt Nam xuất phát từ nhiều nguyên nhân, bao gồm sự hạn chế trong các biện pháp nha khoa dự phòng, nhận thức của người dân còn thấp (thường chỉ đi khám răng khi bị đau hoặc đã mất răng), và sự thiếu hụt trong hệ thống chăm sóc sức khỏe lão khoa tích hợp. Việt Nam hiện vẫn chưa có một chiến lược cụ thể dành riêng cho sức khỏe răng miệng của người cao tuổi, thiếu các chương trình sàng lọc định kỳ, nguồn nhân lực nha khoa dự phòng còn hạn chế, và cơ chế chi trả bảo hiểm cũng như hệ thống dữ liệu thống nhất chưa được hoàn thiện.
Đề án 5628 của Bộ Y tế đã đặt ra mục tiêu đến năm 2030 sẽ có 60% người cao tuổi còn ít nhất 20 răng chức năng. Tuy nhiên, mục tiêu này được đánh giá là một thách thức không nhỏ. Ngành y tế đang định hướng mở rộng các dịch vụ nha khoa cộng đồng, tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ chi phí điều trị thông qua bảo hiểm y tế, và đẩy mạnh công tác truyền thông, sàng lọc bệnh tại tuyến cơ sở.
Nhật Bản được xem là một hình mẫu thành công trong khu vực với chiến dịch “8020” – mục tiêu mỗi người khi đạt 80 tuổi vẫn còn ít nhất 20 răng thật. Chính sách này đã được duy trì trong nhiều thập kỷ, cùng với hệ thống bảo hiểm y tế toàn dân từ năm 1961, chi trả phần lớn các dịch vụ nha khoa – một điều hiếm thấy trên thế giới. Nhờ đó, hầu hết người cao tuổi ở Nhật Bản đều được thăm khám và điều trị răng miệng định kỳ, tỷ lệ tự chi trả rất thấp, và tần suất khám răng cao nhất trong nhóm các nước phát triển. Chương trình này được khởi động ngay từ lứa tuổi mầm non, lồng ghép giáo dục về vệ sinh răng miệng vào chương trình học tại các trường học.
Theo Phó giáo sư Hùng, các quốc gia có hệ thống y tế phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore đạt được độ bao phủ cao trong việc chăm sóc răng miệng cho người cao tuổi nhờ hệ thống bảo hiểm chi trả toàn bộ hoặc một phần chi phí. Trong khi đó, các quốc gia có nguồn lực hạn chế hơn như Thái Lan hay Malaysia lại tận dụng hệ thống y tế cơ sở và cộng đồng. Dù có sự khác biệt về mô hình, điểm chung của các quốc gia này là đều ưu tiên các biện pháp dự phòng và giáo dục về sức khỏe răng miệng từ sớm.
Bác sĩ Chánh cho rằng để cải thiện tình trạng mất răng sớm ở Việt Nam, cần sớm xây dựng Chiến lược quốc gia về chăm sóc sức khỏe răng miệng cho người cao tuổi giai đoạn 2025-2035, đồng thời lồng ghép nội dung này vào các chương trình quản lý bệnh mãn tính, suy giảm trí tuệ, dinh dưỡng và phục hồi chức năng. Bên cạnh đó, cần nâng cao nhận thức của cộng đồng về tầm quan trọng của việc khám răng định kỳ, coi đây là một phần không thể thiếu trong việc chăm sóc sức khỏe tổng thể.
Các chuyên gia cũng đề xuất mở rộng phạm vi chi trả của bảo hiểm y tế cho các dịch vụ khám răng định kỳ, cạo vôi răng, bôi fluor, phục hình răng cơ bản và chăm sóc răng miệng tại nhà. Cần bổ sung gói dịch vụ răng miệng cơ bản tại tuyến y tế cơ sở, chuẩn hóa quy trình sàng lọc chức năng miệng theo mô hình của Nhật Bản và tích hợp vào chương trình khám sức khỏe định kỳ hàng năm cho người cao tuổi.
Admin
Nguồn: VnExpress