Gã khờ KOTO: Thay đổi cuộc đời 1.700 trẻ em

Trong khuôn viên trường KOTO mới tại Phật Tích, Bắc Ninh, tiếng cười rộn rã vang vọng trong sự kiện thường niên “Về nhà ăn cơm” đầu tháng 10. Sự kiện này là dịp để hàng trăm cựu học viên KOTO tề tựu, ôn lại những kỷ niệm và chia sẻ những thành công trên con đường sự nghiệp.

Giữa không khí ấm áp đó, Jimmy Phạm bồi hồi nhớ lại những ký ức của 30 năm về trước, khi anh lần đầu tiên trở lại Việt Nam sau nhiều năm cùng gia đình định cư ở Australia.

Chiều hôm ấy, bên bờ sông Sài Gòn, chàng trai 24 tuổi làm hướng dẫn viên du lịch đã gặp gỡ bốn đứa trẻ đường phố đang kiếm sống bằng nghề bán bánh dừa. Anh dừng lại trò chuyện, mua cho chúng những vật dụng cần thiết. Trong suốt hai tuần ở Việt Nam, đêm nào anh cũng tìm gặp những đứa trẻ này, dẫn chúng đi ăn tối. Những đứa trẻ truyền tai nhau về “gã ngốc mới đến” và rủ nhau đi ăn miễn phí. Có hôm, có đến sáu chục đứa trẻ theo chân anh đến quán phở.

Ánh mắt của những đứa trẻ đường phố năm ấy đã thay đổi hoàn toàn cuộc đời Jimmy. Ngay khi trở về Australia, anh đã chuyển sang một công ty khác để có cơ hội làm việc tại Việt Nam.

Ngôi trường mới của Koto tại Phật Tích, Bắc Ninh. Ảnh: Đinh Hương
KOTO Bắc Ninh: Ngôi trường mới cho tương lai tươi sáng. Ảnh: Internet

“Tôi quyết định trở về vì mong muốn giúp những đứa em có một cuộc sống ‘dễ thở’ hơn so với những gì tôi đã trải qua,” Jimmy chia sẻ.

Jimmy Phạm, 53 tuổi, nhà sáng lập doanh nghiệp xã hội Koto và các học viên năm 2020. Ảnh: Koto
Jimmy Phạm: Nhà sáng lập KOTO và hành trình thay đổi cuộc sống. Ảnh: Internet

Là con út trong một gia đình nhập cư có năm anh chị em, Jimmy đã trải qua 7 năm đầu đời tại các trại tị nạn ở Singapore, Ả Rập Xê Út trước khi đến Australia. Mẹ anh, một người phụ nữ Việt Nam, luôn tin rằng con đường học vấn là con đường duy nhất để thay đổi cuộc đời.

“Việc trở lại Việt Nam để giúp đỡ những đứa trẻ là điều sớm muộn cũng xảy ra,” anh nói. “Nó giống như một định mệnh đã được an bài.”

Tại Hà Nội, Jimmy giúp đỡ chỗ ăn ở và dạy học cho một nhóm 9 đứa trẻ bán báo tại ga Trần Quý Cáp. Sau hơn ba năm, một ngày, những đứa trẻ thú nhận: “Bọn em đang lừa anh,” “Nhưng thấy anh quá tốt nên bọn em cảm thấy áy náy.” Hóa ra, tất cả chúng đều đến từ cùng một ngôi làng ở Hà Nam. Khi Jimmy ở Hà Nội, chúng ngoan ngoãn ở nhà, nhưng khi anh đi công tác, chúng lại đổ ra đường đánh giày và lừa khách du lịch.

“Các em nghĩ rằng tôi sẽ từ bỏ chúng,” Jimmy kể. “Nhưng chính khoảnh khắc đó đã giúp tôi nhận ra rằng mình cần phải tiến thêm một bước nữa. Trước đây, tôi chỉ cho chúng cá, bây giờ tôi phải dạy chúng cách câu cá.”

Tháng 6 năm 1999, anh dốc toàn bộ số tiền tiết kiệm 10.000 USD – một số tiền đủ để mua hai căn nhà ở Long Biên vào thời điểm đó – để mua một chiếc máy nhào bột, mở một tiệm pizza nhỏ trên phố Văn Miếu và bắt đầu dạy nghề. KOTO (Know One, Teach One – Biết một, dạy một) ra đời từ một ý tưởng đơn giản: “Tôi không thể xin cho những đứa trẻ không có giấy tờ được đi học, vì vậy tôi tự mở một nơi để dạy chúng.”

Một đầu bếp người Australia đã tình nguyện đến giúp anh dạy nghề. Chồng của cô đã viết một dự án để xin tài trợ. Một năm sau, dự án này đã nhận được 30.000 USD từ bốn đại sứ quán tại Hà Nội, đủ để Jimmy mở ngôi trường đầu tiên ở phố Thụy Khuê.

Vào thời điểm đó, khái niệm “doanh nghiệp xã hội” vẫn còn rất mới mẻ ở Việt Nam. Không ai hiểu được một nơi vừa dạy nghề, vừa bán bánh, vừa nuôi trẻ vô gia cư là mô hình gì. “Người ta nói tôi treo đầu dê bán thịt chó,” Jimmy kể. “Có người lại nói: ‘Chắc ông giàu lắm, rảnh lắm mới bỏ tiền ra dạy nghề nấu ăn hai năm liền.'”

Năm 2000, hình ảnh chàng hướng dẫn viên gốc Việt cùng những đứa trẻ bán báo, bán kẹo được đăng trên trang nhất của một tờ báo Anh. Cũng trong năm đó, Tổng thống Bill Clinton – vị tổng thống đầu tiên của Mỹ đến thăm Việt Nam sau chiến tranh – đã bất ngờ ghé thăm một tiệm bánh gần Văn Miếu.

Khoảnh khắc đó đã đưa KOTO trở nên nổi tiếng trên toàn thế giới.

Năm 2014, Việt Nam chính thức đưa khái niệm doanh nghiệp xã hội vào luật. Ba năm sau, KOTO trở thành trường hợp đầu tiên được công nhận là doanh nghiệp xã hội.

Từ một tiệm bánh nhỏ bên Văn Miếu, KOTO đã mở rộng ra TP.HCM và cả Australia. Số lượng học viên không ngừng tăng lên. Các thế hệ học viên nối tiếp nhau ra trường, làm việc khắp Việt Nam, vươn tới Australia, Singapore, Abu Dhabi.

Tuy nhiên, đại dịch Covid-19 ập đến đã khiến toàn bộ hệ thống KOTO chao đảo. Không có khách du lịch, nhà hàng đóng cửa, nguồn thu cạn kiệt. “Nhưng tôi không thể nói với các em ‘Về nhà đi, chờ hết dịch rồi quay lại’,” Jimmy kể.

Thời điểm khó khăn nhất là khi chủ nhà đòi lại mặt bằng vì nợ tiền thuê. Jimmy đã chạy khắp Hà Nội để tìm nơi trú chân cho các học viên của mình. Có hôm vừa dọn đến vào buổi sáng, hôm sau lại bị yêu cầu chuyển đi. Anh lang thang khắp các ngõ ngách để tìm chỗ ở, nhưng không ai dám cho thuê chỗ ở cho cả trăm đứa trẻ.

“Có lúc tôi đứng ở ngã ba Đức Giang (Long Biên), không biết phải đi đâu, kiệt sức và nước mắt cứ rơi,” anh nói.

Jimmy quyết định gửi tin nhắn đến các thế hệ học trò cũ của KOTO và nhận được hàng trăm phản hồi. Người chuyển tiền, người cho mượn nhà, người mở cửa hàng cho học viên thực tập. Trong giai đoạn đó, một phần ba kinh phí hoạt động của KOTO đến từ chính những đứa trẻ nghèo khổ năm nào.

Cựu tổng thống Bill Clinton thăm Koto tại Văn Miếu, Hà Nội tháng 11/2020. Trong ảnh, Jimmy Phạm khi đó 28 tuổi cùng khóa học viên đầu tiên. Ảnh: Nhân vật cung cấp
Bill Clinton thăm KOTO Hà Nội: Jimmy Phạm và dấu ấn đầu tiên. Ảnh: Internet

Đại dịch đã dạy cho Jimmy một bài học quý giá: Sức mạnh thực sự của KOTO không nằm ở năng lực của một cá nhân, mà ở cộng đồng mà anh đã dày công xây dựng.

“Chính lúc đó, tôi mới hiểu hết ý nghĩa của KOTO,” Jimmy nói.

Cái tên KOTO – Know One, Teach One (Biết một dạy một) bắt nguồn từ cuộc trò chuyện năm xưa với Huy, học viên khóa đầu tiên. Huy là anh cả của hai đứa em bị ảnh hưởng bởi chất độc da cam. Suốt ba năm liền, Jimmy đưa các em đi viện và chu cấp tiền ăn học. Một ngày, sau khi vừa đưa hai em nhập viện Xanh Pôn, Huy hỏi: “Sao anh lại tốt với tụi em như vậy?”. Anh đáp: “Anh giúp các em không cần trả ơn. Chỉ mong sau này, khi có thể, em hãy giúp đỡ người khác.”

Từ đó, “Biết một dạy một” trở thành triết lý sống của những người KOTO.

Chị Nguyễn Thị Thu, 45 tuổi, học viên khóa 2, xem Jimmy Phạm như “vầng trăng” vì “soi sáng, dẫn đường và có một trái tim nhân hậu phi thường.”

Thu gặp Jimmy khi 16 tuổi, phải lên thành phố bán hàng phụ mẹ nuôi em. Anh đã chủ động “phá lệ” cho cả hai chị em Thu được vào trường. “Khi đạp xe về thăm nhà tôi, anh bị ngã xuống ruộng. Đến lúc ngồi vào nhà, vì nhà nghèo đến mức không có ghế để ngồi, anh lại lúng túng ngã thêm lần nữa,” chị Thu kể về chuyến thăm năm 2000 tại quê nhà Hà Nam.

Biện Thị Liên, 32 tuổi, quê Hà Tĩnh, cho biết cô sẽ không bao giờ quên ơn Jimmy đã cứu cô khỏi vực sâu tuyệt vọng. Sau cú sốc mất cả cha mẹ và anh trai, cô rơi vào trầm cảm và im lặng suốt nhiều tháng. Một buổi chiều, Jimmy ngồi xuống hỏi: “Em có muốn thay đổi cuộc đời mình không?”. Câu hỏi đầy nghiêm khắc nhưng cũng đầy quan tâm ấy đã giúp cô tỉnh ngộ và không muốn quay trở lại tuổi thơ tăm tối nữa.

“Trong suốt hai năm tôi học ở trường, anh có lúc cứng rắn, có lúc dịu dàng, nhưng luôn dõi theo từng bước chân của tôi,” Liên nói.

Với “chiếc cần câu” được KOTO trao cho, chị Thu hiện là trưởng phòng đào tạo của một tập đoàn nước ngoài, em gái chị là đầu bếp cá nhân cho một đại sứ tại Việt Nam. Còn Biện Liên là bếp phó của một nhà hàng tại Australia.

Trong số 9 đứa trẻ đường phố đầu tiên, 8 người đã rất thành công. Người làm chủ nhà hàng ở Phố Cổ, người quản lý chuỗi cà phê cao cấp, bếp trưởng tại các khách sạn lớn, đầu bếp riêng của đại sứ và có người là chủ của 6 nhà hàng ở Australia.

KOTO đã trải qua 25 năm hoạt động. Hơn 1.700 học viên đã vững bước vào đời. Doanh nghiệp đang mở rộng hoạt động sang hỗ trợ trẻ em nghèo, đặc biệt là trẻ em gái ở các vùng khó khăn. Mỗi khóa học kéo dài 24 tháng, trị giá hơn 250 triệu đồng, và hoàn toàn miễn phí. Học viên được học 400 giờ lý thuyết, 400 giờ thực hành, cùng với tiếng Anh giao tiếp. Sau hai năm, họ có chứng chỉ nghề quốc tế, có thể làm việc tại các khách sạn 5 sao ở Việt Nam, cũng như có nhiều cơ hội làm việc ở nước ngoài.

Với những cống hiến trong gần ba thập kỷ, Jimmy Phạm đã nhận được nhiều ghi nhận trong nước và quốc tế, như bằng Tiến sĩ danh dự của RMIT và danh hiệu Nhà lãnh đạo trẻ toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế Thế giới. Nhưng sau tất cả, anh vẫn sống trong một căn hộ thuê, không vợ con, và thỉnh thoảng vẫn phải xin tiền mẹ và anh chị để tiếp tục nuôi dưỡng những đứa trẻ. Mọi khoản tiền thưởng nhận được, anh đều quyên góp lại cho tổ chức.

Quỹ Thiện Tâm đang xây dựng cho KOTO một ngôi trường mới tại Phật Tích (Bắc Ninh), nhưng Jimmy và các cộng sự phải tự lo liệu phần nội thất và mở rộng quy mô lên 300 học viên mỗi khóa. Đây là một thách thức không nhỏ về tài chính.

Anh chia sẻ rằng hành trình của mình có những áp lực vượt quá sức chịu đựng. Nhưng anh chỉ cho phép mình yếu lòng trong 5 phút, rồi lại đứng dậy. “Giữa những lúc tưởng chừng muốn buông xuôi, tôi vẫn tự nhủ: ‘Chỉ cần cố thêm một chút nữa, các em sẽ có một tương lai tươi sáng’,” Jimmy Phạm tâm sự. Hành trình ươm mầm hy vọng của anh vẫn tiếp tục, thắp sáng tương lai cho bao trẻ em kém may mắn.

Admin


Nguồn: VnExpress

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *