120 năm phát triển: Từ nhà thương bản xứ đến bệnh viện hiện đại

Vào đầu thế kỷ 20, Hải Phòng nổi lên như một trung tâm giao thương quan trọng của cả Bắc Kỳ và Liên bang Đông Dương. Sự tăng trưởng dân số nhanh chóng, đặc biệt là lực lượng lao động bản địa, đã tạo ra nhu cầu cấp thiết về chăm sóc sức khỏe.

Tuy nhiên, vào thời điểm đó, Hải Phòng chưa có cơ sở y tế nào dành riêng cho người Việt. Các bệnh viện hiện có chủ yếu phục vụ binh lính và công chức người Pháp, từ chối tiếp nhận bệnh nhân bản xứ. Điều này khiến người dân gặp nhiều khó khăn khi mắc bệnh hoặc gặp tai nạn, thường không được cấp cứu kịp thời.

Tình hình càng trở nên nghiêm trọng hơn do sự lây lan mạnh mẽ của các bệnh truyền nhiễm như kiết lỵ, lao, thương hàn và đậu mùa trong các khu dân cư nghèo. Điều này không chỉ đe dọa sức khỏe của người dân bản địa mà còn cả cộng đồng người châu Âu sinh sống tại Hải Phòng.

Bác sĩ Đỗ Mạnh Thắng, Giám đốc Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp, nhấn mạnh: “Sự ra đời của bệnh viện bản xứ không chỉ xuất phát từ nhu cầu nhân đạo mà còn là một yêu cầu cấp thiết về mặt y tế công cộng và trật tự đô thị, nhằm kiểm soát dịch bệnh và bảo đảm an sinh xã hội.”

Nơi làm việc của cán bộ Nhà thương bản xứ thời Pháp thuộc. Ảnh tư liệu
Ảnh tư liệu: Nơi làm việc tại Nhà thương bản xứ thời Pháp thuộc. Ảnh: Internet

Trước tình hình đó, ngày 2/10/1905, chính quyền thuộc địa đã thành lập Nhà thương bản xứ (Hôpital Indigène) trên một khu đất trống ở phía tây thành phố, tận dụng các lán trại tạm bợ của phu mộ. Do quy mô ban đầu còn hạn chế, điều kiện điều trị thiếu thốn, nên vào năm 1906, chính quyền đã mở rộng thêm các hạng mục như 16 khoa nội, khoa ngoại, nhà bếp, phòng tắm và khu vệ sinh riêng biệt. Đặc biệt, còn có khu điều trị nội trú dành cho bệnh nhân nghèo không có khả năng chi trả.

Đến năm 1927, chính quyền tiếp tục xây dựng thêm khoa nội, khoa ngoại và phòng đẻ. Vào năm 1945, Giám đốc Ty Vệ sinh thành phố vẫn kiêm nhiệm chức vụ Giám đốc Nhà thương bản xứ, với đội ngũ nhân viên chỉ có 13 người, bao gồm cả chủ nhiệm các khoa và y tá.

Mặc dù cơ sở vật chất và trang thiết bị y tế còn nghèo nàn, bác sĩ Thắng cho rằng sự ra đời của Nhà thương bản xứ Hải Phòng là một bước chuyển mình quan trọng. Từ đây, hệ thống y tế công lập chính thức được hình thành, trở thành nơi khám chữa bệnh, đào tạo và làm việc đầu tiên của nhiều thế hệ y bác sĩ người Việt.

Trong những năm đầu hoạt động, đội ngũ thầy thuốc của Nhà thương bản xứ chủ yếu là sĩ quan quân y người Pháp, sau đó có thêm sự tham gia của nhiều viên chức người Việt. Họ không chỉ chăm sóc người bệnh mà còn tích cực tham gia vào các phong trào cách mạng, tiêu biểu là nữ hộ sinh nội trú Nguyễn Thị Vinh. Bà Vinh được kết nạp vào Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội và tham gia sinh hoạt cùng tổ học sinh – viên chức.

Cuối năm 1927, bà Vinh cùng đồng đội mở một hiệu sách ở phố Mê Linh, sau đó nhượng lại cho Tỉnh bộ Cách mạng để làm đầu mối liên lạc, chuyển tài liệu và sách báo cách mạng từ nước ngoài về, góp phần quan trọng vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Hải Phòng và Việt Nam.

Giữa tháng 5/1930, bà Nguyễn Thị Thuận, một đảng viên cộng sản đang mang thai, bị bắt và chuyển đến Nhà thương bản xứ. Nhờ sự giúp đỡ của cơ sở cách mạng tại đây, đặc biệt là bà Vinh, bà Thuận đã trốn thoát thành công. Sau vụ việc này, mật thám Pháp đã điều tra và xét hỏi 20 thầy thuốc cùng nhân viên nhà hộ sinh, bắt giữ bà Vinh nhưng sau đó phải thả vì thiếu chứng cứ. Tuy nhiên, đến đầu tháng 11/1930, do bị phản bội, bà Vinh và bà Hiển đã bị bắt lại.

Khi thực dân Pháp nổ súng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược toàn miền Bắc, đánh chiếm Hải Phòng, nhiều thầy thuốc và nhân viên y tế đã tham gia bộ đội, cứu chữa và phát thuốc cho chiến sĩ và người dân bị thương. Một số y tá và thầy thuốc còn bí mật đưa cán bộ vào nhà thương để chữa bệnh, băng bó vết thương và giúp họ trốn thoát khỏi sự truy lùng của địch.

Sau khi Hải Phòng được giải phóng vào năm 1955, chính quyền cách mạng đã tiếp quản Nhà thương bản xứ và đổi tên thành Bệnh viện Hải Phòng. Lực lượng y tế từ vùng kháng chiến trở về tiếp quản bệnh viện với hơn 10 y sĩ, dược sĩ và y tá, cùng hơn 30 nhân viên thuộc các bộ phận tổ chức, quản trị hành chính và hậu cần.

Trang thiết bị của bệnh viện khi đó rất nghèo nàn. Bàn mổ và bàn đẻ đều cũ kỹ, han gỉ. Mỗi khoa chỉ có khoảng 5 bơm tiêm, kim tiêm phải mài lại thường xuyên. Phòng X-quang có hai máy nhưng chỉ một máy hoạt động, sau khi chụp xong phải trả phim về cho khoa tự xem và quyết định, riêng phim chụp dạ dày phải gửi lên Hà Nội để đọc kết quả, có khi phải chờ cả tháng. Giường bệnh nhân là những khung sắt cũ, ván nằm bằng gỗ đã mọt và đầy rệp.

Trong khi đó, Hải Phòng là một thành phố công nghiệp lớn với số lượng công nhân đông đảo, điều kiện bảo vệ sức khỏe và an toàn lao động còn thiếu thốn, dẫn đến tai nạn xảy ra thường xuyên. Trong những năm bị địch tạm chiếm, công nhân lao động quá sức trong điều kiện thiếu thốn, dẫn đến ốm đau, bệnh tật nhiều.

Do đó, hoạt động ra vào viện của bệnh nhân luôn trong tình trạng căng thẳng. Nhiều bệnh nhân chưa đủ điều kiện ra viện vẫn phải xuất viện để nhường giường cho bệnh nhân cấp cứu. Tình trạng bệnh nhân có vết thương nhiễm trùng nằm chung phòng với bệnh nhân vô trùng thường xuyên xảy ra.

Bệnh viện đổi tên thành  Bệnh viện Tiệp Khắc khi được Tiệp Khắc viện trợ xây dựng hiện đại năm 1959. Ảnh tư liệu
Ảnh: Bệnh viện Tiệp Khắc – viện trợ và hiện đại hóa năm 1959. Ảnh: Internet

Trước tình hình đó, năm 1956, Chính phủ Tiệp Khắc đã ký Nghị định thư viện trợ y tế cho Việt Nam để xây dựng một bệnh viện đa khoa hiện đại tại Hải Phòng. Tháng 10/1956, đoàn chuyên gia y tế và xây dựng Tiệp Khắc đã đến Bệnh viện Hải Phòng để khảo sát, lập đồ án thiết kế, vừa xây mới vừa cải tạo và trang bị nội thất. Trưởng đoàn Tiệp Khắc là bác sĩ Bradacék, sau này trở thành giám đốc bệnh viện.

Năm 1957, công trường xây dựng bệnh viện được khởi công. Ngoài số lượng lớn vật liệu xây dựng do Việt Nam cung cấp, Chính phủ Tiệp Khắc đã viện trợ những vật liệu quý như thép xây dựng, tấm lợp, gạch men, kính, cùng toàn bộ trang thiết bị cho các khoa chuyên môn, tương đương với một bệnh viện cùng cấp ở Tiệp Khắc.

Bác sĩ Thắng cho biết: “Những thứ gì bạn không có hoặc không sản xuất kịp thì gửi mua ở Đức, Ba Lan, Trung Quốc và Hong Kong.” Tổng chi phí cho công trình này lên đến 5 tỷ đồng (thời giá năm 1959), trong đó 3 tỷ là chi phí cho máy móc y tế, thiết bị và vật liệu do phía Tiệp Khắc cung cấp. Sau gần hai năm xây dựng, bệnh viện khánh thành và được đổi tên thành Bệnh viện Tiệp Khắc, trở thành một mô hình kiểu mẫu của ngành y tế miền Bắc.

Sau ngày thống nhất, Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp bước vào giai đoạn đổi mới, được đầu tư cơ sở vật chất và trang thiết bị hiện đại. Sự hỗ trợ quốc tế từ Tiệp Khắc, Pháp, Phần Lan không chỉ dừng lại ở viện trợ y tế mà còn bao gồm cả việc cử chuyên gia đến đào tạo, giúp bệnh viện nhanh chóng hiện đại hóa các chuyên khoa trọng yếu.

Trải qua 120 năm xây dựng và phát triển, hiện nay Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp là một cơ sở đa khoa hạng 1 của thành phố. Bệnh viện có 47 khoa lâm sàng, 11 khoa cận lâm sàng và 11 khoa phòng chức năng, cùng với đội ngũ 2.180 y bác sĩ và nhân viên y tế, trong đó có nhiều phó giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ, bác sĩ chuyên khoa cấp 1, cấp 2 giàu kinh nghiệm.

Hằng ngày, bệnh viện tiếp nhận trung bình khoảng 1.500 lượt khám ngoại trú và điều trị nội trú cho từ 2.000 đến 2.400 bệnh nhân, không chỉ phục vụ người dân Hải Phòng mà còn cả người dân từ các tỉnh, thành phố lân cận như Quảng Ninh, Thái Bình. Bệnh viện đã làm chủ được nhiều kỹ thuật khó như phẫu thuật tim hở, thay khớp, nội soi ít xâm lấn, vi phẫu ghép chi thể đứt rời.

Trong hai năm 2023-2024, bệnh viện đã triển khai thành công 6 ca ghép thận tại thành phố, đánh dấu một bước tiến mới trong điều trị cho bệnh nhân suy tạng giai đoạn cuối, mang lại hy vọng vượt qua căn bệnh hiểm nghèo.

Bác sĩ Thắng tự hào khẳng định: “Từ Nhà thương bản xứ, chúng tôi đã trở thành một đơn vị hàng đầu của ngành Y tế Hải Phòng.”

Admin


Nguồn: VnExpress

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *