“Điều đáng sợ nhất không phải là phát hiện ra ung thư vú, mà là phát hiện bệnh ở giai đoạn muộn,” BS.CK1 Phùng Ngọc Thư, Trưởng Trung tâm Chăm sóc Tuyến vú, Bệnh viện FV, chia sẻ trong sự kiện Ngày hội Nơ hồng – Bảo vệ sức khỏe tuyến vú, hưởng ứng Tháng Nâng cao nhận thức về ung thư vú (25/10).
Bác sĩ Thư cho biết, gần đây, một bệnh nhân trung niên khỏe mạnh đã được phát hiện khối u chỉ 4mm ở giai đoạn 0 trong một lần tầm soát định kỳ. Hình ảnh cộng hưởng từ cho thấy một chấm nhỏ. Nhờ phát hiện sớm, bệnh nhân đã được điều trị nhẹ nhàng bằng phẫu thuật bảo tồn kết hợp xạ trị bổ trợ mà không cần hóa trị.
Theo bác sĩ Basma M’Barek, Trưởng Trung tâm Điều trị Ung thư Hy Vọng, nhờ những tiến bộ y học, ung thư vú ngày nay được phân loại chi tiết hơn so với 25 năm trước, khi bệnh chỉ được chia thành 3 nhóm lớn. Việc phân loại chi tiết này cho phép cá thể hóa phác đồ điều trị. Đối với những bệnh nhân được phát hiện sớm, quá trình điều trị diễn ra nhẹ nhàng, đôi khi kín đáo đến mức người thân cũng khó nhận biết.
Hiện nay, Việt Nam đã áp dụng nhiều phương pháp điều trị hiện đại như liệu pháp hormone thế hệ mới, hóa trị chọn lọc giảm độc tính, xạ trị bảo vệ tim phổi, cùng các liệu pháp nhắm trúng đích và miễn dịch. Mô hình điều trị đa chuyên khoa và tiếp cận cá nhân hóa giúp tối ưu hóa hiệu quả điều trị và giảm thiểu tác dụng phụ.
Các chuyên gia y tế khuyến cáo phụ nữ nên bắt đầu khám vú từ tuổi 25 như một món quà sức khỏe cho bản thân. Tầm soát sớm giúp phụ nữ hiểu rõ nguy cơ di truyền, rèn luyện kỹ năng tự theo dõi cơ thể và xây dựng kế hoạch chăm sóc tuyến vú lâu dài. Việc lựa chọn cơ sở y tế có chuyên gia nhũ khoa và trang thiết bị hiện đại cũng rất quan trọng để phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm.

Theo Tổ chức Ung thư Toàn cầu (GLOBOCAN), ung thư vú hiện đã vượt qua ung thư gan để trở thành loại ung thư phổ biến nhất ở Việt Nam. Bệnh chiếm gần 29% tổng số ca ung thư ở nữ giới, nghĩa là cứ ba phụ nữ được chẩn đoán ung thư thì có một người mắc ung thư vú. Đáng chú ý, ngày càng có nhiều trường hợp được phát hiện ở giai đoạn sớm và độ tuổi mắc bệnh đang có xu hướng trẻ hóa.
Phụ nữ nên tự khám vú mỗi tháng (sau kỳ kinh 5-7 ngày), khám lâm sàng định kỳ và chụp nhũ ảnh khi đến tuổi phù hợp. Hướng dẫn của Bộ Y tế khuyến cáo nhóm không có nguy cơ cao từ 20-40 tuổi nên tự khám hàng tháng, khám lâm sàng mỗi 1-3 năm; từ 40 tuổi trở lên nên khám lâm sàng và chụp nhũ ảnh mỗi năm. Đối với nhóm có nguy cơ cao, việc sàng lọc nên bắt đầu từ 25 tuổi, tự khám hàng tháng, khám lâm sàng mỗi 6-12 tháng và chụp nhũ ảnh định kỳ hàng năm.
Admin
Nguồn: VnExpress
