Tình trạng sụt lún đất đang diễn ra nghiêm trọng tại TP HCM, gây ảnh hưởng lớn đến nhiều công trình và nhà ở. Tại Trung tâm Văn hóa – Thể thao phường An Lạc (quận Bình Tân cũ), hiện tượng sụt lún đã tạo ra những khoảng hở rộng 20 cm giữa chân tường và nền đất. Bên trong, các phòng tập võ gạch men trồi sụt, sân cầu lông, bóng rổ xuất hiện nhiều vết nứt kéo dài, thậm chí có những cột nhà bị đứt gãy ngang với độ rộng đáng kể.
Cách đó không xa, trên đường Lê Cơ, nhiều hộ dân cũng đang phải đối mặt với tình trạng tương tự. Anh Trần Lê Đỗ Xuân Trọng cho biết ngôi nhà ba tầng của gia đình anh đã bị lún trong nhiều năm. Ban đầu, chỉ có nền nhà bếp bị ảnh hưởng, nhưng sau đó tình trạng lan rộng ra các phòng khác. Dù gia đình đã nhiều lần nâng nền và sửa chữa trong 5 năm qua, các vết nứt trên tường vẫn tiếp tục kéo dài. “Dù đã gia cố móng rất kỹ khi xây nhà vì biết khu vực này nền đất yếu, nhưng đến nay nhà vẫn bị lún và nứt tường,” anh Trọng chia sẻ.
Những trường hợp như nhà anh Trọng và Trung tâm Văn hóa – Thể thao phường An Lạc cho thấy rõ tác động của sụt lún nền đất tại TP HCM. Theo số liệu của Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra Tài nguyên nước miền Nam (DWRPIS), phường An Lạc là địa phương có độ lún tích lũy lớn nhất thành phố từ năm 2005 đến 2017, lên đến 81 cm, cao hơn nhiều so với mức lún chung của TP HCM là 23 cm.

Nghiên cứu của PGS.TS Lê Trung Chơn (Viện trưởng Nghiên cứu Phát triển bền vững, Đại học Tài nguyên và Môi trường) và cộng sự chỉ ra rằng, tình trạng sụt lún ở TP HCM đã diễn ra hơn một thập kỷ và ngày càng nghiêm trọng. Trong giai đoạn 2006-2020, tốc độ lún trung bình của thành phố là 2-5 cm mỗi năm. Các khu vực có địa chất yếu hoặc tập trung nhiều công trình thương mại có thể lún tới 7-8 cm mỗi năm.
Một nghiên cứu khác của Cheryl Tay và các đồng nghiệp tại Đại học Công nghệ Nanyang (Singapore), phối hợp với các chuyên gia từ NASA và Viện Công nghệ Liên bang Thụy Sĩ, cũng cho thấy TP HCM nằm trong nhóm các thành phố có tốc độ lún nhanh hơn tốc độ nước biển dâng. Nghiên cứu này sử dụng radar vệ tinh để đo tốc độ sụt lún của 48 thành phố ven biển đông dân nhất thế giới từ năm 2014 đến 2020. Kết quả cho thấy, tại 44 thành phố, các khu vực sụt lún nhanh nhất đang chìm nhanh hơn mực nước biển dâng. Các thành phố ở phía nam và Đông Nam Á là những nơi bị ảnh hưởng nhiều nhất. Trong khi một số khu vực thuộc Thiên Tân (Trung Quốc) và Ahmedabad (Ấn Độ) chìm nhanh hơn 2 cm mỗi năm, tốc độ lún trung bình của TP HCM là 1,62 cm mỗi năm.
Nếu tình trạng này tiếp diễn đến năm 2030, TP HCM có thể mất thêm 20 km2 diện tích do chìm dưới mực nước biển và ngập lụt.
PGS.TS Lê Trung Chơn cho rằng nguyên nhân chính gây sụt lún là do TP HCM nằm trên nền địa chất yếu, đặc biệt là các lớp trầm tích trẻ Holocene dễ bị nén. Việc khai thác nước ngầm quá mức làm giảm áp lực lỗ rỗng trong đất, dẫn đến nén chặt. Bên cạnh đó, quá trình đô thị hóa nhanh chóng với nhiều công trình xây dựng làm tăng tải trọng tĩnh lên nền đất yếu, cùng với tải trọng từ hoạt động giao thông, càng làm tình trạng sụt lún trở nên nghiêm trọng hơn. Các khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất là những nơi có địa hình thấp và địa chất yếu, như vùng Nam Sài Gòn, dọc sông Sài Gòn, bao gồm bán đảo Thanh Đa, khu Hiệp Bình Phước và Thảo Điền.
Để ứng phó với tình trạng này, PGS.TS Lê Trung Chơn nhấn mạnh sự cần thiết phải xem dữ liệu sụt lún như một yếu tố bắt buộc trong quy trình quy hoạch, thiết kế và bảo dưỡng công trình. Ông cho rằng, vì sụt lún là hiện tượng tự nhiên kết hợp với tác động của con người, không thể loại bỏ hoàn toàn mà cần chủ động “chung sống” bằng cách sử dụng khoa học dữ liệu. Giải pháp trước mắt là xây dựng hệ thống dự báo sụt lún chi tiết trong 5-10 năm tới, đồng thời công khai dữ liệu cho cộng đồng và nhà đầu tư. Việc này giúp người dân đưa ra lựa chọn đúng đắn hơn, còn chính quyền có thể điều chỉnh quy hoạch hạ tầng và chống ngập phù hợp với thực tế.

Ông Chơn ví dụ, nếu một khu vực như quận 7 cũ có cao độ 1,5 m nhưng lún trung bình 5 cm mỗi năm, thì chỉ sau 10 năm cao độ sẽ còn một mét. Thông tin này sẽ làm thay đổi bài toán kỹ thuật và chi phí xây dựng. Nhiều đô thị như Bắc Kinh và Tokyo đã sử dụng bản đồ lún làm cơ sở cấp phép xây dựng và dự báo độ ổn định của nền đất, từ đó giảm thiểu rủi ro công trình và thiệt hại kinh tế. Việc tích hợp dữ liệu này vào quy hoạch sẽ giúp TP HCM chủ động hơn trong quản lý hạ tầng, ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển đô thị theo hướng bền vững.
PGS.TS Hồ Long Phi, nguyên Giám đốc Trung tâm Quản lý nước và Biến đổi khí hậu (Đại học Quốc gia TP HCM), cho rằng bên cạnh việc khắc phục hậu quả, cần triển khai các giải pháp thích ứng dài hạn. Thành phố cần tăng cường hệ thống kiểm soát ngập, bao gồm xây đê bao, kè sông, cống ngăn triều và các trạm bơm công suất lớn, để chủ động điều tiết nước vào mùa mưa và triều cường. Đồng thời, cần phát triển mạng lưới hồ điều tiết và khơi thông kênh rạch để tích trữ và phân tán dòng nước, giảm nguy cơ ngập úng.
Ông Phi cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giải quyết các vướng mắc để hoàn thành các dự án đang dang dở, đặc biệt là công trình ngăn triều gần 10.000 tỷ đồng, hiện đã hoàn thành hơn 90%. Khi đi vào vận hành, dự án này sẽ góp phần quan trọng trong việc kiểm soát ngập cho khu vực trung tâm thành phố và phía nam, nơi có địa chất yếu hơn.

Trong quy hoạch chung đến năm 2040, tầm nhìn 2060, chính quyền TP HCM đã xác định hướng tiếp cận là phát huy hạ tầng hiện hữu kết hợp bổ sung các công trình mới để hình thành ba lớp kiểm soát ngập: lớp bảo vệ, lớp thích ứng và lớp giảm thiểu thiệt hại. Lớp bảo vệ tập trung vào các giải pháp hạ tầng cứng như đê, kè, đường, cống ngăn triều để kiểm soát triều cường, nước biển dâng và xả lũ. Lớp thích ứng hướng đến xây dựng hệ thống hồ điều tiết trữ nước trong phạm vi các hệ thống đê, kè. Lớp giảm thiểu thiệt hại kết hợp cả giải pháp hạ tầng cứng và mềm, như nâng cao nền đường, xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo sớm và di tản trong tình huống khẩn cấp.
Ngoài ra, TP HCM cũng sẽ quy hoạch cao độ nền xây dựng theo hướng hài hòa giữa khu dân cư hiện hữu và khu vực phát triển mới, đảm bảo thoát nước tự nhiên tốt nhất. Cao độ nền được chia theo ba vùng thoát nước, với các yêu cầu khác nhau tùy thuộc vào vị trí trong hoặc ngoài vùng bảo vệ của hệ thống đê, kè. Những nỗ lực này nhằm giúp thành phố chủ động hơn trong việc đối phó với tình trạng sụt lún và các tác động của biến đổi khí hậu, hướng tới một tương lai phát triển bền vững.
Admin
Nguồn: VnExpress
