Việt Nam đang gấp rút triển khai các giải pháp đồng bộ để tăng cường bảo vệ môi trường, trong đó có việc thiết lập sàn giao dịch tín chỉ carbon thí điểm vào cuối năm 2025, chậm hơn một năm so với kế hoạch ban đầu. Thông tin này được Tổng thư ký Quốc hội Lê Quang Mạnh báo cáo khi trình bày về tình hình thực hiện Luật Bảo vệ môi trường năm 2020. Đây là một trong sáu nhiệm vụ cấp bách mà Việt Nam đặt mục tiêu hoàn thành trước năm 2026.
Thị trường carbon là nơi diễn ra hoạt động mua bán quyền phát thải khí nhà kính thông qua các tín chỉ hoặc hạn ngạch carbon. Các doanh nghiệp có nhu cầu bù đắp lượng phát thải để đạt mục tiêu giảm thải (tự nguyện hoặc bắt buộc) sẽ mua quyền phát thải từ các tổ chức, doanh nghiệp có lượng phát thải thấp hơn mức cho phép hoặc tạo ra tín chỉ carbon.
Theo dự thảo Nghị định về sàn giao dịch carbon trong nước, sàn sẽ giao dịch hai loại sản phẩm chính là hạn ngạch phát thải và tín chỉ carbon. Đồng thời, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đang xây dựng dự thảo Nghị định về trao đổi quốc tế kết quả giảm phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon, dự kiến trình Chính phủ trong năm nay.
Tại phiên thảo luận, bà Nguyễn Thị Lan Anh, Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ Lào Cai, nhấn mạnh sự cần thiết phải sớm đưa sàn giao dịch carbon vào vận hành chính thức để thúc đẩy nền kinh tế xanh và đạt mục tiêu Net Zero vào năm 2050. Bà cũng đề xuất các chính sách hỗ trợ kỹ thuật và tài chính cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, để tạo điều kiện cho họ tham gia thị trường carbon. Các địa phương có độ che phủ rừng lớn cần được ưu tiên để phát huy tiềm năng trong thị trường này. Bà Lan Anh cũng kiến nghị ưu tiên phát triển rừng đặc dụng để vừa phòng chống thiên tai, vừa tạo vùng sinh thái carbon trọng điểm.
Bà Hà Hồng Hạnh, Phó trưởng ban Tuyên giáo và Dân vận tỉnh Khánh Hoà, chỉ ra những khó khăn mà doanh nghiệp Việt Nam đang gặp phải khi tham gia thị trường tín chỉ carbon. Bà cho biết hiện cả nước chỉ có một vài trung tâm đủ năng lực kiểm kê khí nhà kính theo chuẩn quốc tế, và dữ liệu phát thải ở nhiều ngành còn thiếu, gây khó khăn cho việc xác định hạn ngạch và giám sát kết quả phát thải.
Bà Hạnh cũng cho biết, các doanh nghiệp muốn bán tín chỉ carbon hiện nay phải thông qua các tổ chức trung gian quốc tế với chi phí cao, làm giảm lợi ích thực tế. Bà kiến nghị cần hoàn thiện khung pháp lý, đặc biệt là các nghị định về vận hành sàn giao dịch carbon và quy định về phân bổ, mua bán hạn ngạch phát thải. Đồng thời, cần xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về phát thải nhà kính thống nhất từ trung ương đến các doanh nghiệp.

Bà Hạnh đề xuất Nhà nước hỗ trợ chi phí kiểm toán và đăng ký tín chỉ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời ưu đãi về thuế và tín dụng xanh cho các đơn vị tiên phong trong giảm phát thải.

Ngoài mục tiêu phát triển thị trường carbon, Việt Nam cũng sẽ ban hành và triển khai kế hoạch hành động quốc gia về khắc phục ô nhiễm và quản lý chất lượng môi trường không khí giai đoạn 2025-2030, tầm nhìn 2045. Các biện pháp cấp bách để kiểm soát ô nhiễm không khí tại Hà Nội và TP HCM sẽ được thực hiện ngay.
Việt Nam cũng sẽ xây dựng hệ thống thông tin, dữ liệu kiểm kê khí nhà kính trực tuyến để phân tích và báo cáo kết quả kiểm kê kịp thời. Đến cuối năm 2026, dữ liệu môi trường quốc gia sẽ được vận hành, bảo đảm liên thông và chia sẻ theo thời gian thực.
Báo cáo giám sát cũng ghi nhận những chuyển biến tích cực trong công tác bảo vệ môi trường tại Việt Nam. Ba trong số năm chỉ tiêu đặt ra cho năm 2025 đã vượt kế hoạch, bao gồm tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị đạt chuẩn, tỷ lệ khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường và tỷ lệ che phủ rừng. Các nguồn thải lớn đã được kiểm soát chặt chẽ, hạn chế các sự cố môi trường lớn.
Tuy nhiên, tình trạng ô nhiễm môi trường vẫn diễn biến phức tạp, đặc biệt là ô nhiễm bụi mịn tại các thành phố lớn. Hà Nội và TP HCM có thời điểm nằm trong nhóm các đô thị ô nhiễm nhất thế giới. Hạ tầng kỹ thuật về bảo vệ môi trường, đặc biệt là hệ thống thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt và nước thải, còn lạc hậu, chưa đáp ứng yêu cầu. Hiện chỉ có khoảng 18% tổng lượng nước thải đô thị được thu gom và xử lý. Cả nước mới có 31,5% cụm công nghiệp và 16,6% làng nghề đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt yêu cầu.
Admin
Nguồn: VnExpress
