Sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố chính sách thuế đối ứng toàn cầu vào tháng 4, SLP Việt Nam, một đơn vị phát triển và vận hành cơ sở hạ tầng công nghiệp và logistics, đã nhanh chóng nhận thấy sự thay đổi trong tâm lý của các nhà đầu tư nước ngoài (FDI).
Ông Đinh Hoài Nam, Giám đốc Phát triển kinh doanh và Thương mại của SLP Việt Nam, chia sẻ rằng ngay cả những khách hàng đã ký hợp đồng cũng bày tỏ sự lo ngại về tình hình bất ổn. Tuy nhiên, nhờ vào các động thái chủ động tiếp xúc với Mỹ từ phía Việt Nam, các nhà đầu tư đến từ Trung Quốc, Singapore, Đài Loan và châu Âu đã quay trở lại với cam kết mở rộng đầu tư, khôi phục lại làn sóng dịch chuyển sản xuất.
Tại Diễn đàn Bất động sản công nghiệp Việt Nam (VIPF 2025), do Báo Tài chính – Đầu tư và Liên chi hội Bất động sản công nghiệp Việt Nam (VIREA) tổ chức, ông Nam cho biết: “Hiện tại, rủi ro đối với chúng tôi đã giảm xuống mức tối thiểu, gần như không còn vấn đề gì. Tính đến hết quý III, tỷ lệ lấp đầy toàn bộ danh mục đã vượt quá 90%, một kết quả rất khả quan.”
Theo số liệu từ Cục Thống kê, trong 9 tháng đầu năm, Việt Nam đã thu hút được 28,54 tỷ USD vốn FDI, tăng 15,2% so với cùng kỳ năm trước. Vốn thực hiện đạt mức cao nhất trong 5 năm, lên tới 18,8 tỷ USD. Báo cáo gần đây của HSBC cũng khẳng định rằng, mặc dù đã có những lo ngại về sự ổn định của dòng vốn ngoại vào Việt Nam vào tháng 4, FDI tiếp tục là động lực tăng trưởng quan trọng.
Trong năm 2024, Singapore, Hàn Quốc và Trung Quốc là ba nhà đầu tư lớn nhất. Hiện tại, Singapore và Trung Quốc mỗi nước chiếm khoảng 25% vốn đầu tư mới, trong khi thị phần của Hàn Quốc đã được thay thế bởi Mỹ. HSBC nhấn mạnh rằng, bất chấp những biến động thương mại, hai nền kinh tế lớn nhất thế giới vẫn tiếp tục rót vốn vào Việt Nam.
Chỉ số niềm tin kinh doanh (BCI) quý III của Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (EuroCham) cho thấy tỷ lệ doanh nghiệp có ý định rời khỏi Việt Nam là rất thấp, chỉ 3%. Chủ tịch EuroCham, ông Bruno Jaspaert, cho biết 76% doanh nghiệp được khảo sát sẽ giới thiệu Việt Nam là một điểm đến đầu tư hấp dẫn. Ông nói: “Điều này cho thấy sức hút của Việt Nam vẫn được duy trì mạnh mẽ bất chấp những yếu tố ngoại cảnh.”
Các thế mạnh nội tại được củng cố cũng góp phần giúp dòng vốn FDI không bị gián đoạn. Bà Trần Thị Hải Yến, Giám đốc Trung tâm Xúc tiến, Thông tin và Hỗ trợ đầu tư phía Nam (Bộ Tài chính), cho biết Việt Nam đứng thứ 3 trong số 7 nước ASEAN về thu hút đầu tư dương, sau Singapore và Indonesia.
Kết quả này có được nhờ nền chính trị ổn định, chính sách thu hút FDI chất lượng cao phù hợp với xu hướng, cùng với việc quy hoạch và phát triển các khu kinh tế, khu thương mại tự do đi kèm các chính sách ưu đãi cho công nghệ cao.

Ông Hardy Diec, Giám đốc điều hành KCN Việt Nam, cho rằng những nỗ lực cải cách như chính quyền hai cấp đã giúp rút ngắn quy trình, giảm thủ tục và thời gian xử lý hồ sơ, tạo ra một môi trường minh bạch và thông suốt. Ông Trương Gia Bảo, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký VIREA, nhấn mạnh rằng việc Việt Nam tham gia 17 FTA và thực hiện chính sách ngoại giao “cây tre” được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao.
Ông Bảo nhận định: “Việt Nam đang đón nhận làn sóng đầu tư ngắn hạn, chủ yếu để lấp đầy kho xưởng, trong khi việc chuyển dịch dây chuyền sản xuất vẫn đang trong giai đoạn ‘nén’ và sẽ diễn ra sau đó. Hiện nay, nhà đầu tư đến từ nhiều quốc gia hơn, không chỉ từ khu vực Hoa ngữ mà còn từ châu Âu và Mỹ.”

Không chỉ duy trì được dòng vốn, chất lượng của dòng vốn cũng được cải thiện. Bà Trang Lê, Tổng giám đốc JLL Việt Nam, đánh giá rằng Việt Nam đang chuyển mình từ nền kinh tế thâm dụng lao động sang thâm dụng vốn. Tỷ lệ lấp đầy trung bình của các khu công nghiệp hiện đạt trên 73%, đặc biệt nhờ vào các ngành công nghệ cao, điện tử, dược phẩm, logistics và trung tâm dữ liệu.
Ông Hardy Diec cũng đồng tình, cho rằng dòng vốn hiện nay đang chuyển hướng sang các lĩnh vực có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao. Ông nói: “Việt Nam đang dần chuyển từ vai trò ‘công xưởng’ sang ‘trung tâm sản xuất chiến lược’.”
Tuy nhiên, các chuyên gia khuyến cáo Việt Nam không nên chủ quan. Mô hình tính toán của JLL so sánh mức độ hấp dẫn đầu tư của các nước trong khu vực, bao gồm chi phí vận hành trực tiếp (thuê/mua bất động sản, nhân công, điện nước) và gián tiếp, cho thấy Ấn Độ vượt trội nhất. Tiếp theo là Thái Lan, Malaysia và Việt Nam.
Trên thực tế, các chuyên gia chỉ ra rằng vẫn còn nhiều thách thức cần giải quyết để duy trì khả năng cạnh tranh. Ông Đinh Hoài Nam lấy ví dụ về chi phí logistics cao và sự phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên liệu sản xuất. Ông nói: “Chi phí ở Việt Nam không phải là rẻ nhất.”
Ông Trần Tấn Sỹ, Phó Tổng giám đốc KN Holdings, đơn vị có hai khu công nghiệp định hướng thu hút đầu tư công nghệ cao gần sân bay Long Thành, cho biết nguồn nhân lực và điện sạch là hai mối quan tâm chính của đoàn đầu tư bán dẫn từ Đài Loan khi đến tìm hiểu.
Ông Hardy Diec cho rằng lợi thế về chi phí lao động rẻ không còn đủ. Các nhà đầu tư toàn cầu đang mang đến các ngành sản xuất giá trị cao hơn và công nghệ tiên tiến, đòi hỏi các kỹ thuật viên, kỹ sư và nhà quản lý có trình độ cao.
Ngoài ra, các nhà đầu tư cũng yêu cầu quỹ đất công nghiệp đạt các tiêu chuẩn bền vững và các gói dịch vụ trọn gói. Ông Trương Khắc Nguyên Minh, Phó Tổng giám đốc Prodezi Long An, cho rằng việc chuyển đổi từ khu công nghiệp truyền thống sang khu công nghiệp sinh thái sẽ sớm trở thành tiêu chuẩn bắt buộc nếu muốn tiếp cận các chuỗi cung ứng toàn cầu và các thị trường cao cấp như EU, Bắc Mỹ hay Nhật Bản.
Ông Minh bổ sung: “Ngoài ra, khu công nghiệp ngày nay cần đóng vai trò như một nền tảng tích hợp dịch vụ – đổi mới – kết nối cộng đồng sản xuất, chứ không chỉ là nơi cho thuê đất.”
Tính đến quý III năm 2025, cả nước có hơn 447 khu công nghiệp được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên khoảng 134.600 ha, trong đó hơn 93.000 ha là đất công nghiệp có thể cho thuê. Ngoài ra, cả nước còn có 26 khu kinh tế cửa khẩu và 20 khu kinh tế ven biển với tổng diện tích gần 1,7 triệu ha, theo số liệu của JLL.
Admin
Nguồn: VnExpress
