Chương trình đưa lao động Việt Nam đi làm việc thời vụ tại Hàn Quốc, dù mang lại thu nhập đáng kể và cơ hội phát triển kinh tế cho nhiều gia đình, vẫn tồn tại những vấn đề đáng lo ngại về tình trạng vi phạm hợp đồng và cư trú bất hợp pháp.

Theo báo cáo tổng kết của Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ Nội vụ), từ năm 2022 đến tháng 9/2025, đã có hơn 10.000 lao động Việt Nam tham gia chương trình làm việc thời vụ trong lĩnh vực nông nghiệp và ngư nghiệp tại Hàn Quốc. Các địa phương có số lượng lao động tham gia đông đảo nhất bao gồm Ninh Bình (hơn 3.160 người), Đà Nẵng (2.370 người) và Đồng Tháp (gần 1.470 người). Nhu cầu đi làm việc thời vụ tại Hàn Quốc thường vượt xa chỉ tiêu tuyển dụng, ví dụ như Cà Mau có tới 500 hồ sơ đăng ký nhưng chỉ tuyển được 285 người.

Mức thu nhập bình quân của người lao động Việt Nam tại Hàn Quốc dao động từ 30 đến 47 triệu đồng mỗi tháng, chưa tính tiền làm thêm giờ và sau khi đã trừ chi phí ăn ở. Với hợp đồng kéo dài từ 5 đến 8 tháng, tổng thu nhập của người lao động có thể đạt từ 150 đến 320 triệu đồng, và số tiền tiết kiệm mang về nước có thể lên tới 80 đến 100 triệu đồng. Khoản tiền tích lũy này giúp nhiều gia đình cải thiện kinh tế hoặc tạo vốn để khởi nghiệp sau khi trở về. Ngoài thu nhập, người lao động còn có cơ hội tích lũy kinh nghiệm thực tế trong sản xuất và chăn nuôi.
Chương trình cũng góp phần giảm nghèo và thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương. Ví dụ, Lai Châu thu về khoảng 48 tỷ đồng, Cà Mau thu 6 tỷ đồng mỗi tháng, và Hưng Yên thu hàng trăm tỷ đồng từ năm 2018 đến tháng 6/2025. Tuy nhiên, do sự khác biệt về thời tiết, đặc biệt là mùa đông lạnh giá với tuyết rơi, một số lao động Việt Nam gặp khó khăn trong việc thích nghi. Bên cạnh đó, tính chất thời vụ của công việc cũng khiến một số người không đảm bảo thời gian làm việc theo thỏa thuận.
Một vấn đề đáng quan ngại là tình trạng vi phạm hợp đồng và cư trú bất hợp pháp tại Hàn Quốc. Trước khi đi, người lao động và gia đình phải ký cam kết bảo lãnh, có xác nhận của chính quyền địa phương. Một số địa phương còn áp dụng các biện pháp mạnh hơn như Ninh Bình và Cà Mau yêu cầu ký vi bằng, Hưng Yên yêu cầu sổ tiết kiệm từ 260 đến 300 triệu đồng, Quảng Trị yêu cầu ký quỹ 36 triệu đồng hoặc 50 triệu đồng kèm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Mặc dù vậy, số lượng lao động bỏ trốn vẫn còn cao, ví dụ như Cần Thơ (46 người), Hưng Yên (39 người), Quảng Trị (35 người), Cà Mau (34 người), Ninh Bình (29 người), Đồng Tháp (28 người) và Đăk Lăk (21 người).
Theo đánh giá của cơ quan quản lý, chi phí đi làm việc thời vụ là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng bỏ trốn. Thống kê cho thấy có những hợp đồng chỉ kéo dài 8 tháng nhưng người lao động phải đóng trên 65 triệu đồng. Khoản chi phí này tạo áp lực lớn cho người lao động, khiến họ tìm cách trốn ra ngoài để làm việc bất hợp pháp.
Ngoài các khoản phí bắt buộc như phí hộ chiếu, visa, khám sức khỏe, lý lịch tư pháp, vé máy bay và phí đào tạo, một số địa phương còn thu thêm phí hành chính và dịch vụ từ 9 đến 15 triệu đồng để chi trả cho các hoạt động tuyên truyền, tuyển chọn, tư vấn hồ sơ, đào tạo ngoại ngữ và phí giao thông cho đối tác Hàn Quốc.
Một nguyên nhân khác là việc tuyển chọn lao động không phù hợp. Nhiều người không có kinh nghiệm làm nông nghiệp vẫn được tuyển chọn, dẫn đến tình trạng họ bỏ trốn khi sang Hàn Quốc vì không muốn làm công việc thời vụ.
Về phía chủ sử dụng lao động Hàn Quốc, một số chưa thực hiện đúng các điều khoản trong hợp đồng, như nợ lương, chậm lương hoặc cung cấp thực phẩm không đảm bảo. Chênh lệch thu nhập, tính chất công việc nặng nhọc, cường độ cao và thời tiết khắc nghiệt cũng là những yếu tố khiến người lao động bỏ trốn. Bên cạnh đó, chất lượng đào tạo ngoại ngữ và định hướng nghề nghiệp chưa tốt cũng khiến lao động Việt Nam gặp khó khăn trong công việc.
Cơ quan quản lý cũng nhận thấy rằng các biện pháp bảo lãnh hoặc ký quỹ hiện tại chưa đủ mạnh để ngăn chặn tình trạng bỏ trốn. Các biện pháp này cũng đang gặp vướng mắc về mặt pháp lý, do chưa có quy định cụ thể về việc xử lý và sử dụng tiền cọc, ký quỹ của lao động vi phạm hợp đồng. Ví dụ, Hưng Yên còn tồn 9,3 tỷ đồng và Quảng Trị còn tồn 1,3 tỷ đồng tiền gửi của lao động vi phạm hợp đồng nhưng chưa thể giải ngân.
Để giải quyết vấn đề này, cần có một khung pháp lý thống nhất về tiêu chuẩn, điều kiện, chi phí tối đa và cơ chế tài chính áp dụng cho chương trình hợp tác giữa các địa phương. Cần có chế tài mạnh hơn trong việc ký quỹ, thế chấp tài sản, và cơ chế giải quyết số tiền ký quỹ của lao động vi phạm hợp đồng. Các tỉnh tham gia cần tuyển chọn đúng người địa phương, có kinh nghiệm làm nông nghiệp và kỷ luật tốt. Các địa phương cần chú trọng bồi dưỡng tiếng Hàn, cung cấp thông tin đầy đủ về công việc cho người lao động trước khi đi, và thực hiện nghiêm quy định về các khoản phí thu từ lao động theo đúng tinh thần “phi lợi nhuận” của chương trình.
Cục Quản lý lao động ngoài nước cũng đề xuất Bộ Nội vụ tăng cường trao đổi với phía Hàn Quốc để yêu cầu chủ sử dụng tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về giờ làm việc, nghỉ ngơi, lương, chỗ ở cho người lao động Việt Nam, tránh tình trạng nợ lương, chậm lương hoặc trả lương thấp hơn quy định. Các cơ quan chức năng của Hàn Quốc cần quản lý chặt chẽ chủ sử dụng lao động để ngăn chặn việc tiếp nhận lao động bất hợp pháp và xử phạt nghiêm những trường hợp vi phạm. Phía Hàn Quốc cũng nên có thêm cơ chế tài chính hỗ trợ lao động Việt Nam về nước đúng hạn, như hỗ trợ vé máy bay chiều về và giảm chi phí thuê nhà ở.
Chương trình thí điểm đưa lao động Việt Nam đi làm việc thời vụ tại Hàn Quốc được triển khai từ năm 2022 theo hình thức hợp tác giữa các địa phương của hai nước. Đến nay, có 16 tỉnh thành tham gia chương trình, bao gồm Tuyên Quang, Lai Châu, Lào Cai, Phú Thọ, Hưng Yên, Ninh Bình, Hà Tĩnh, Quảng Trị, TP Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Đăk Lăk, Lâm Đồng, Cần Thơ, Đồng Tháp và Cà Mau.
Nhu cầu tuyển dụng lao động thời vụ trong lĩnh vực nông nghiệp và ngư nghiệp tại Hàn Quốc vẫn rất lớn, trung bình từ 70.000 đến 80.000 người mỗi năm. Vào tháng 6 vừa qua, Chính phủ Hàn Quốc đã bổ sung gần 23.000 chỉ tiêu trong đợt hai, sau khi đã tiếp nhận gần 73.000 người trong đợt đầu, tăng 41% so với năm 2024.
Admin
Nguồn: VnExpress
