TP HCM: Ba lớp phòng thủ chống ngập hiệu quả

Trong đồ án điều chỉnh quy hoạch chung đến năm 2040, tầm nhìn 2060, TP HCM định hướng chiến lược chống ngập bằng cách phát huy tối đa hạ tầng hiện có, đồng thời đầu tư xây dựng các công trình mới. Mục tiêu là hình thành ba lớp kiểm soát ngập: bảo vệ, thích ứng và giảm thiểu thiệt hại.

Lớp bảo vệ tập trung vào các giải pháp hạ tầng cứng như đê, kè, đường, cống ngăn triều và hành lang kiểm soát ngập do triều cường, nước biển dâng và xả lũ.

Lớp thích ứng chú trọng xây dựng hệ thống hồ điều tiết trong phạm vi đê, kè nhằm điều hòa dòng chảy và giảm áp lực cho hệ thống thoát nước.

Lớp giảm thiểu thiệt hại kết hợp cả hạ tầng cứng và mềm, bao gồm nâng nền các trục đường chính, phân vùng ngập, hỗ trợ cứu hộ, xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo sớm và tổ chức di tản khi có tình huống khẩn cấp.

Kênh Hàng Bàng qua quận 5, 6 (cũ) từng bị lấp, nay đang được hồi sinh. Ảnh: Quỳnh Trần
Hồi sinh kênh Hàng Bàng (Quận 5, 6): Từ lấp đến tái sinh (Ảnh: Quỳnh Trần). Ảnh: Internet

TS Phạm Viết Thuận, Viện trưởng Viện Kinh tế Tài nguyên và Môi trường TP HCM, cho rằng định hướng này phù hợp với đặc điểm tự nhiên của thành phố, nơi có địa hình thấp, nền đất yếu và chịu ảnh hưởng lớn từ mưa cực đoan, triều cường và sụt lún. Ông cũng cho biết, các lớp kiểm soát ngập này đã được triển khai trong nhiều năm qua, nhưng do thiếu kinh phí và quá trình đô thị hóa chưa đồng bộ với hạ tầng thoát nước nên hiệu quả chưa đạt được như kỳ vọng.

Trong hai thập kỷ qua, chiến lược chống ngập của TP HCM đã dựa trên bốn quy hoạch lớn, trong đó hai quy hoạch quan trọng nhất là quy hoạch tổng thể hệ thống thoát nước (752) và quy hoạch thủy lợi (1547). Hai quy hoạch này tạo nên cấu trúc “phòng thủ nhiều lớp”, bao gồm kiểm soát vòng ngoài, thoát nước bên trong và các giải pháp ứng phó nhanh.

Lớp kiểm soát vòng ngoài dựa trên quy hoạch 1547, với phạm vi gần một triệu ha, bao gồm TP HCM và một phần của Đồng Nai, Long An. Mục tiêu chính là ngăn triều và lũ thông qua việc xây dựng các cống ngăn triều lớn, hệ thống đê bao và bờ kè.

Quy hoạch này chia thành ba vùng kiểm soát, trong đó Vùng 1 là trọng tâm, bao gồm toàn bộ khu vực bờ hữu sông Sài Gòn – Nhà Bè. Vùng này được quy hoạch xây dựng 12 cống kiểm soát triều lớn cùng với hệ thống đê bao dọc theo bờ hữu sông Sài Gòn (từ Bến Súc), sông Soài Rạp và bờ tả sông Vàm Cỏ Đông đến tỉnh lộ 824 (Long An cũ). Khu vực này cũng được quy hoạch phát triển các hồ điều tiết, ao, hồ, kênh rạch và cải tạo các vùng trũng để trữ nước.

Lớp kiểm soát bên trong chủ yếu dựa trên quy hoạch 752, tập trung vào các giải pháp thoát nước mưa, nước thải và chống ngập ở khu vực nội thành với 6 lưu vực: trung tâm, bắc, tây, nam, đông bắc và đông nam.

Lớp phòng thủ thứ ba là các giải pháp hỗ trợ và ứng phó nhanh như vận hành máy bơm, cảnh báo sớm, phân vùng ngập tạm thời, nhằm bảo vệ thành phố khi hai lớp chính bị quá tải do mưa cực đoan, triều cường hoặc xả lũ.

Sau nhiều năm triển khai, thành phố đã hoàn thành một số dự án lớn giúp chống ngập và giảm ô nhiễm, như dự án Vệ sinh môi trường thành phố (lưu vực kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè); cải thiện môi trường nước các lưu vực kênh Tàu Hũ – Bến Nghé – Đôi – Tẻ; Tân Hóa – Lò Gốm; Tham Lương – Bến Cát (giai đoạn 1)…

Tuy nhiên, nhiều chỉ tiêu trong các quy hoạch vẫn chưa đạt được. Tổng chiều dài mạng lưới cống thoát nước hiện khoảng 4.700 km, thấp hơn so với mục tiêu 6.000 km vào năm 2020. Ở vòng ngoài, hệ thống đê bao và cống ngăn triều lớn cũng chưa hoàn thiện. Dự án giải quyết ngập do triều có xét đến yếu tố biến đổi khí hậu (giai đoạn 1), mặc dù đã khởi công từ năm 2016, vẫn còn dang dở.

Cống ngăn triều Mương Chuối thuộc dự án. Ảnh: Thanh Tùng
Cống ngăn triều Mương Chuối: Giải pháp chống ngập hiệu quả (Ảnh: Thanh Tùng). Ảnh: Internet

Dự án này có tổng vốn gần 10.000 tỷ đồng, bao gồm 6 cống ngăn triều lớn và 7,8 km đê kè ven sông Sài Gòn, từ Vàm Thuật đến Sông Kinh. Theo kế hoạch ban đầu, dự án sẽ hoàn thành vào năm 2018, giúp kiểm soát ngập do triều cho 570 km2 với 6,5 triệu dân sống ở khu vực ven sông Sài Gòn và trung tâm thành phố. Tuy nhiên, sau gần một thập kỷ, công trình này vẫn chưa thể đi vào vận hành do vướng mắc về pháp lý và vấn đề thanh toán quỹ đất cho nhà đầu tư, dù đã hoàn thành hơn 90% khối lượng công việc.

TS Phạm Viết Thuận nhận định rằng sự đình trệ kéo dài này đã làm giảm hiệu quả của “tuyến phòng thủ” bên ngoài. Ông cũng cho rằng quá trình đô thị hóa nhanh chóng và việc san lấp hàng loạt kênh rạch (vốn là các trục thoát nước tự nhiên) đã làm giảm khả năng kết nối giữa lớp kiểm soát bên trong và bên ngoài.

Ông giải thích: “Khi diện tích thấm hút tự nhiên bị thay thế bằng bê tông, toàn bộ lượng nước sẽ dồn vào các tuyến cống nhỏ, đã xuống cấp, khiến chúng không còn khả năng tiếp nhận và gây ra tình trạng ngập nặng.”

TS Võ Kim Cương, nguyên Phó Kiến trúc sư trưởng TP HCM, cho rằng với đặc thù về địa hình và địa chất, vấn đề chống ngập đã được nhận diện sớm và quy hoạch một cách bài bản. Giải pháp hàng đầu là xây dựng đê bao và cống ngăn triều bao quanh thành phố, tạo thành một vòng khép kín kết hợp với mạng lưới cống bên trong và hệ thống bơm hỗ trợ.

Tuy nhiên, ông cũng nhận định rằng tình trạng “thành phố ngập ngày càng nặng” cho thấy quy hoạch đã có nhưng việc thực hiện chưa tốt. Ví dụ, dự án đê bao xung quanh TP HCM theo kế hoạch sẽ hoàn thành vào năm 2012, còn dự án ngăn triều 10.000 tỷ đồng đáng lẽ đã hoàn thành vào năm 2018.

Ông nhấn mạnh: “Khi thành phố chưa được bảo vệ bởi vòng an toàn bên ngoài thì các giải pháp bên trong cũng trở nên vô nghĩa.” Ông cho rằng khi có vòng bảo vệ khép kín, việc xử lý ngập lụt sẽ trở nên dễ dàng hơn và các giải pháp mềm mới có thể phát huy hiệu quả.

Đối với quy hoạch sắp tới, ông Cương cho rằng khi thành phố đã mở rộng, cần phải tính toán lại vị trí của các công trình lớn, tránh các khu vực có nền đất yếu. Với công nghệ hiện nay, các tòa nhà lớn có thể sử dụng cọc sâu để chống lún, nhưng các công trình nhỏ xung quanh có thể bị ảnh hưởng, gây ra tình trạng ngập úng và sụt lún nghiêm trọng hơn.

Nước ngập trên đường Trần Xuân Soạn, quận 7 cũ do triều cường. Ảnh: Quỳnh Trần
Triều cường gây ngập đường Trần Xuân Soạn, Quận 7 (Ảnh: Quỳnh Trần). Ảnh: Internet

Theo TS Phạm Viết Thuận, TP HCM hiện tại khó có thể giải tỏa các khu dân cư để khôi phục lại diện tích kênh rạch đã bị san lấp. Do đó, cần ưu tiên nạo vét và khơi thông hệ thống thoát nước hiện có, tuân theo nguyên tắc “nước chảy chỗ trũng”, hướng từ Bắc xuống Nam (nơi có địa hình thấp). Thành phố cũng cần phát triển các hồ điều tiết ngầm và hở để tích trữ nước, phân tán dòng chảy và hạn chế tình trạng dồn nước về các điểm ngập.

Đối với hệ thống đê bao, ông Thuận đề xuất đầu tư theo hướng xây dựng đê dân sinh, kết hợp giữa việc đắp đất cao và làm đường giao thông, thay vì xây dựng các công trình bê tông kiên cố. Cách này sẽ giúp giảm tải trọng, hạn chế sụt lún, tiết kiệm chi phí và dễ dàng bảo trì hơn. Ông cũng nhấn mạnh: “Trước mắt, thành phố nên ưu tiên tháo gỡ các vướng mắc cho các dự án còn tồn đọng, như công trình ngăn triều 10.000 tỷ đồng, để giải quyết tình trạng ngập úng và tránh gây lãng phí.”

Theo Giám đốc Sở Quy hoạch – Kiến trúc Võ Hoàng Ngân, không chỉ TP HCM mà cả Bình Dương và Vũng Tàu cũng đang phải đối mặt với tình trạng ngập lụt do mưa lớn, sụt lún, nước biển dâng và tốc độ đô thị hóa nhanh chóng. Do đó, thành phố sẽ mời các đơn vị tư vấn để nghiên cứu và đánh giá một cách toàn diện, từ đó xây dựng cơ sở dữ liệu đầu vào cho quy hoạch chống ngập mới.

Sở Quy hoạch – Kiến trúc hiện đang trình UBND TP đồ án chuyên đề về cao độ nền và hệ thống thoát nước. Đồ án này sẽ xác định cao độ chuẩn cho từng khu vực, làm cơ sở để thiết kế hạ tầng, cấp phép xây dựng, đảm bảo sự kết nối đồng bộ của hệ thống thoát nước, hướng tới mục tiêu kiểm soát ngập một cách bền vững cho đô thị đặc biệt lớn nhất cả nước.

Admin


Nguồn: VnExpress

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *